Mạch đất sông Con
(Cadn.com.vn) - Sông Con chảy qua đất Tân Kỳ, Nghệ An là một con sông rất lạ. Ở đất Nghĩa Đàn sông mang tên Hiếu, đến Tân Kỳ thành sông Con. Đã là Con thì phải Hiếu, tên sông hay ý nguyện con người? Sông Lam là sông Mẹ, sông Cả, nên mới có Con có Hiếu. Đi hết H. Tân Kỳ, sông Con bỗng chảy ngược lên vùng núi Anh Sơn xanh thẳm như lưu luyến không chịu từ giã đại ngàn. Đoạn sông chảy ngược này dài hơn 60 cây số, mới chịu đổ vào sông Lam ở ngã ba Cây Chanh. Hai bờ sông “chảy ngược” ấy tuy rất nhỏ bé về diện tích nhưng đó là mạch Đất Thiêng. Đất sông Con mang trong lòng nó nhiều dấu ấn lịch sử trọng đại của dân tộc, cũng là miền đất mới, đang tươi tốt sầm uất từng ngày...
Dọc sông Con từ đầu huyện đến cuối H. Tân Kỳ có 99 đỉnh núi tụ về một hướng. Trong dãy núi có tên là Lèn Rõi ấy có một hệ thống hàng chục hang động rất hoang sơ, kỳ vĩ. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy trong Hang Chùa hàng trăm loại công cụ có hình dạng rìu đá, dao đá, chày đá... của người Việt Cổ. Sử sách chép rằng các hang động ở Lèn Rõi ấy cũng đã từng là nơi cất giấu vũ khí, nơi trú quân tập luyện, chính là “căn cứ địa” của nghĩa quân Lam Sơn của Lê Lợi.
Lê Lợi đã đưa quân từ Lam Sơn về đây để xây dựng lực lượng kháng chiến lâu dài, và tầm nhìn địa - chiến - lược ấy đã mang lại những trận đại thắng quân Minh lẫy lừng nhiều năm sau đó. Xuất phát từ đây, nghĩa quân Lê Lợi đã diệt thành Trà Lương, Khả Lưu, Bồ Ải, Trà Lân... Theo sử sách, tất cả những trận đánh ấy, Lê Lợi đều xuất quân ở căn cứ Bãi Lơi Lơi, bãi Tập Mã, đồng Voi, núi Đồn, núi Cột Cờ, ở những thành lũy trên đất Tiên Kỳ, Giai Xuân... bên sông Con. Trong áng hùng văn Bình Ngô Đại Cáo lẫm liệt của Nguyễn Trãi, có nhắc tên miền đất sông Con - Tân Kỳ “Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay...”. Đó là trầm tích lịch sử.
![]() |
Cột mốc số 0 đường Trường Sơn, tại thị trấn Lạt, Tân Kỳ. |
Thời chống Mỹ, điểm son chói đỏ trên đất Sông Con là nơi khởi đầu con đường Hồ Chí Minh huyền thoại. Lịch sử cũng có một sự trùng hợp lạ kỳ. Gần 1.000 năm trước, vào thời Lý, con thứ 5 của Lý Thái Tổ là Uy Minh Hầu Lý Nhật Quang, trấn giữ châu Nghệ An (11-1041) đã dùng sức dân mở con đường thượng đạo trên đất Tân Kỳ. Con đường ấy đã góp phần quan trọng vào chiến thắng của vua Lê Thái Tông đánh tan quân Chiêm Thành ở cửa biển Ô Long mùa xuân năm Giáp Tý (1044).
45 năm về trước, người Tân Kỳ lại một lần nữa xẻ núi, băng rừng mở đường thượng đạo: Đường Hồ Chí Minh lịch sử. Ngày 9-9-1964, trên một bãi đất hẹp dưới chân núi Dong, Trung đoàn 98 công binh đã bổ nhát cuốc đầu tiên mở đường Hồ Chí Minh. Nơi xuất phát điểm ấy là “Cây số 0” ở ngã ba TT Lạt bên sông Con. Cuối năm đó, con đường bí mật ấy mới mở được 16 cây số. Thế mà một năm sau (10-1965) đoàn xe chở vũ khí lương thực đầu tiên đã chuyển bánh vào
Thời chống Pháp, bên sông Con dưới chân núi Vực Lồ, xã Nghĩa Đồng có một xưởng quân giới rất lớn gọi là “Xưởng Huỳnh Thúc Kháng” thành lập từ năm 1947, thời của lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn làm tư lệnh Liên khu IV. Xưởng chuyên sản xuất các loại vũ khí như móc-chê (súng cối) 60 ly, đạn móc-chê 60 ly, súng Bazoka, rồi lựu đạn, mìn... để cung cấp cho Việt Minh trên địa bàn miền Trung, bộ đội ta ở Thượng Lào và chi viện cho công cuộc Nam Tiến. Xưởng quân giới đó đông tới 300 công nhân.
Một câu chuyện lạ lùng nữa bên sông Con là trong kháng chiến chống Mỹ có một Sư đoàn xe đạp thồ mang tên Tân Kỳ tồn tại trong 3 năm ròng. Đầu năm 1972, Sư đoàn dân công xe thồ H. Tân Kỳ được thành lập, làm lễ ra mắt trong rừng Lim cạnh Cầu Rõi hiện nay do một thường vụ huyện ủy làm “Sư trưởng”. Lúc này ở Tân Kỳ có rất nhiều đơn vị bộ đội, cơ quan, đoàn thể, kho tàng của tỉnh, của Quân khu 4 đóng quân, lại có hơn 2 vạn dân Vĩnh Linh đất lửa sơ tán ra theo chương trình K10. Nghĩa là nhu cầu lương thực, thực phẩm... cung cấp hàng tháng tăng gấp 4-5 lần bình thường.
Tất cả đều phải vận chuyển từ các kho ở Diễn Châu, Đô Lương, Yên Thành, Quỳnh Lưu lên, Nghĩa Đàn về. Vì thế việc thành lập Sư đoàn dân công xe đạp thồ là một quyết sách lớn của người Tân Kỳ... 1.500 chiến sĩ dân công vốn là nông dân cày ruộng, cả đời chưa bao giờ một lần đạp xe đạp, thế mà họ đã luyện tập để nhanh chóng làm chủ được chiếc xe Phượng Hoàng chở 2-3 tạ hàng đi cả trăm cây số vượt dốc Truông Trầm, Ba Xanh, Truông Dong, Ba Quanh... đưa về tập các kho cơ quan huyện, xã. Có người thồ đến 3- 4 tạ một chuyến, được tuyên dương “Dũng sĩ vận tải”.
Mảnh đất Tân Kỳ suốt 7 năm ròng (1968- 1973), đã nhường nhà, nhường giường, nhường cơm sẻ áo với Vĩnh Linh tuyến đầu Tổ quốc. Đất cho hàng ngàn hộ dân Vĩnh Linh canh tác; trường cấp I, II, III cho hàng vạn con em Vĩnh Linh học; bệnh viện cho người Vĩnh Linh đau ốm chữa bệnh,... Nghĩa là từ bát cơm, hạt muối, người Tân Kỳ những năm đó đã biết lo gấp đôi, gấp ba vì nghĩa tình cách mạng. Vì thế mà mỗi gia đình Tân Kỳ đều đã trở thành nơi đi về thân thiết của hàng vạn con em Vĩnh Linh. Ngược lại từ khi có người Vĩnh Linh đến ở, người Tân Kỳ mới biết kỹ thuật trồng cây lưu niên; biết trồng cây hồ tiêu, cây huỳnh tinh (dong), biết chế biến bột sắn lọc, biết làm bánh bột lọc nhân đậu, nhân tôm,...
Trong mỗi hộ ở các làng quê Tân Kỳ hôm nay, ai cũng có vườn hồ tiêu. Đó là nét mới ở Tân Kỳ. Ông cha ta bảo Một đêm nằm bằng năm ở, huống chi đây ròng rã 7-8 năm liền trong mưa bom bão đạn! Nên tình cảm Vĩnh Linh – Tân Kỳ đến hôm nay vẫn vô cùng gắn bó. Cái đó nói lên một điều hệ trọng: Huyện miền núi Tân Kỳ tuy nghèo và nhỏ, nhưng đã dự phần quan trọng vào những vấn đề trọng đại nhất của đất nước!
Ngô Minh