Miên man Huế thơ
(Cadn.com.vn) - Không biết tự bao giờ xứ Huế đã được mệnh danh là: Huế thơ! Có lẽ Huế là xứ sở duy nhất trên thế giới mà tên gọi lại được kèm với chữ Thơ như một biểu tượng nghệ thuật. Vâng, đã có một Huế thơ trong tâm thức người Việt bao đời. Điều gì đã tạo cho Huế có cuộc kết duyên cùng thơ kỳ diệu như thế? Nếu có sự đo đếm, Huế hẳn không thua kém bất cứ thành phố nào trên thế giới về số lượng thơ ngợi ca vẻ đẹp của xứ sở này.
Bởi thế mà Huế đã trở thành chiếc nôi sinh thành, mái nhà trú ngụ của nhiều thế hệ thi nhân Việt Nam gần 200 năm qua. Từ các vị vua thi sĩ như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức... đến các ông Hoàng như Miên Thẩm, Miên Trinh, các bà chúa như Mai Am, Huệ Phố... Từ Phan Bội Châu đến Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Nguyễn Bính, Tế Hanh... đến Nguyễn Khoa Điềm, Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Khắc Thạch... Người ở Huế làm thơ về Huế, người xa Huế làm thơ nhớ Huế, người chỉ lần đầu đến Huế thôi cũng tức cảnh sinh tình mà có thơ...
Rất nhiều nhà văn, nhà thơ ví Huế là con gái, là Nàng Thơ đầy quyến rũ! Đặc ân tuyệt vời này Huế dành cho các nhà thơ. Bao nhiêu hình ảnh trong cuộc sống hàng ngày của cô gái Huế đã trở thành hình tượng thơ điển hình tới mức cổ điển, khảm vào lịch sử văn chương như tà áo tím Huế, tà áo dài trắng nữ sinh, nón bài thơ, mái tóc thề... Cho đến cái bao la thăm thẳm như mưa Huế, chuông chùa Thiên Mụ, vườn cây trái Kim Long, Vĩ Dạ... cũng như được sinh ra, được đắp bồi, tạo dựng riêng cho thơ! Đoàn Phú Tứ đã phát hiện ra Màu thời gian tím ngát-đó cũng là màu Huế, màu của Thi Ca trường cửu.
Huế Thơ kết tinh trong con người Huế từ điệu đi, dáng đứng, kết tinh trong núi Huế, cây Huế, vườn Huế, trong từng cơn chớp biển mưa nguồn đan xen trong không gian nội tâm tình cảm, trở thành tiếng gọi từ nơi sâu kín nhất của hồn người. Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến cho rằng chính cái nết đất nết người Huế như hòa đồng với phẩm chất của thơ. Nhà thơ Lưu Trọng Lư từng gửi cả thời trai đam mê của mình trong con đò và tiếng đàn Huế. Lúc sinh thời có lần Tạp chí Sông Hương xin ông thơ để in, ông chép gửi vào một chùm bảo in bài nào là tùy ý tòa soạn. Nhưng lại hồn nhiên năn nỉ: "xin đừng gạt đi bài mưa của tôi. Cái trận mưa Huế ngày này qua ngày khác... đã "giam hãm" cả tuổi xuân của tôi...".
Tà áo dài tím Huế từng đi vào thi ca. |
Sông Hương chính là linh hồn của Huế thơ! Nói đến Huế là nói đến sông Hương, núi Ngự:... Dạ thưa xứ Huế bây giờ/ vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương (Bùi Giáng). Đại thi hào Nguyễn Du vào làm quan triều Nguyễn. Ngắm sông Hương mùa thu, ông thốt lên trong bài Thu chí: Hương giang nhất phiến nguyệt/ Kim cổ hứa đa sầu (Sông Hương trăng một mảnh /Xưa nay biết bao sầu). Đúng là cách nhìn sông Hương của đại thi hào.
Còn vua Thiệu Trị xếp hạng và đề thơ tranh gương cách đây 155 năm có Hương Giang: Thiên tửu vị can nhu ngạn thụ/ Sơn hoa do luyến kết vân anh (Cây cối hai bên bờ sông còn đẫm sương. Hoa trên núi còn vương vấn với mây đẹp đẽ-bài Hương Giang Hiểu phiếm). Sông Hương sinh ra cho thơ, cho Huế. Con sông như một làn hương thơm vào hồn phố. Sông Hương mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, bao đời nay là người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Nếu như chẳng có sông Hương/Câu thơ xứ Huế giữa đường đánh rơi... (Huy Tập). Có tới hai phần thơ Huế là viết về sông Hương, hoặc sinh ra trên dòng sông. Khi thì thật khí phách: Hương Giang như kiếm lập thanh thiên (Cao Bá Quát); Khi chợt thốt lên lãng đãng: Hương ơi, e phải mày không/Sông ấy hóa ra mình có... (Phan Bội Châu); nhà thơ Thu Bồn đã phát hiện ra bản lĩnh và chiều sâu tâm hồn Huế: Con sông dùng dằng con sông không chảy/sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.
Đối với Nguyễn Trọng Tạo thì sông Hương là nguồn rượu vô tận cho thi sĩ: "Sông Hương hóa rượu ta đến uống/Ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say...". Nhạc sĩ, nhà thơ tài danh Văn Cao lúc sinh thời đã viết nhiều tác phẩm, nhạc thơ về Huế. Trong một bức tâm thư gửi Huế ông kể rằng: "Huế là nguồn sáng tạo của tôi trong những năm 1940. Thơ và nhạc tôi tìm nguồn từ đấy. Có lẽ lịch sử và cảnh vật của Cố Đô là những điều gây cảm xúc cho sáng tạo".
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, một chiều nọ bỗng phát hiện ra một hình tượng đẹp chưa từng có trong thơ về dòng sông: Nhưng chiều nay con bò gặm cỏ/Bên dòng sông như chưa biết chiều tan/Tôi với nó lặng im bè bạn/Mắt nó nhìn dìu dịu nước Hương Giang... Huế là không gian cổ điển Phương Đông thuần khiết. Huế là chốn của những mái cong đền cổ thấp thoáng dưới bóng vườn xanh. Không gian cổ tích ấy là môi trường lý tưởng của những chiêm nghiệm, những cảm thức làm nền tảng triết lý cho thơ: Bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ / chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu... / em rất thực nắng thì mờ ảo / Xin đừng lầm em với Cố Đô (Thu Bồn)...
Các nhà thơ trẻ Huế hôm nay không chỉ biết hoài cổ mà đang vươn tới sự hiện đại trong các hình tượng thơ về Huế. Tôi nằm dưới bóng râm thời trang/ kinh nghiệm xanh rì rào thành phố/Đất nước tôi/ những vùng môi mặn đỏ phù sa.../Giấc chiêm bao lịch sử nóng ran... (Văn Cầm Hải). Người lính đi qua chiến tranh, trở về với đời thường, bỗng nhận ra mình trong dáng phong sương cổ kính của những chú ngựa đá trong lăng tẩm cũ: Biết tìm đâu người lính buổi xa xăm /Ai đang còn bạc phơ râu tóc/Nấm cỏ vô danh ai người đã khuất /Nhớ cuồng chân ngựa hóa đá đứng chờ... (Ngô Minh)
Huế luôn dành đặc ân cho Thơ sinh thành. Thơ làm cho Huế lung linh hơn, thăng hoa hơn.
Tùy bút của Ngô Minh