Miên man Tam Giang
(Cadn.com.vn) - Không hiểu sao mỗi lần về Phá Tam Giang lòng tôi lại rạo rực khôn tả. Hình như sông nước, đò giang nó gọi mình. Một lần mới đây, nhà văn Nguyễn Quang Lập, nhà thơ Đỗ Trung Quân cùng mấy anh nhà báo ở Sài Gòn ra đã chở vợ chồng Hoàng Phủ Ngọc Tường- Lâm Thị Mỹ Dạ và tôi đến một bến thuyền ở xã Quảng Lợi bên Phá Tam Giang. Ở đây có cái nhà hàng đầy gió biển và các món đặc sản đầm phá tươi rói. Nhưng ăn nhậu không thú bằng ngắm Tam Giang chiều xuống. Sóng nước long lanh như mắt người. Đêm đi chơi trăng uống rượu với ốc nướng trên đò. Dường như tất cả ánh trăng trên thế gian đều đổ xuống Tam Giang, mặt nước lấp lánh như dát vàng. Nhà thơ Đỗ Trung Quân xuýt xoa: ”Mình đang trở thành Người Trời rồi”.
![]() |
Nhà chồ-“chứng tích” duy nhất còn lại ở phá Tam Giang. |
1. Đời tôi có nhiều ký ức với Tam Giang. Sau giải phóng anh trai đầu của tôi được điều động vào Quảng Điền để “chỉ đạo” việc thành lập Hợp tác xã nghề cá. Anh tôi ở với bà con ngư dân xã Quảng Ngạn bên kia phá nên tôi thường đạp xe mấy chục cây số ra thăm anh. Tôi nhiều lần qua phá Tam Giang để đi viết về anh hùng, ông tổ nghề nuôi tôm Phan Thế Phương, viết về nhà thơ Phan Trung Thành, hoặc đi chơi theo bè bạn rủ rê. Nhà thơ Hải Kỳ ở Đồng Hới, là bạn tri kỷ của tôi có ba ở Sịa. Mỗi lần Hải Kỳ vô thăm ba lại rủ tôi cùng đi. Từ đó tôi hiểu biết thêm nhiều về Sịa, thị trấn có lịch sử văn hóa mấy trăm năm bên Tam Giang. Phá Tam Giang rộng lắm ai ơi/ Có ai về Sịa với tôi thì về/ Ðất Sịa có lịch có lề/ Có sông tắm mát, có nghề làm ăn. Tên Sịa, chữ Nôm nghĩa là đồ đan bằng tre, dùng để phơi sấy cau. Không hiểu sao tên một vật dụng thủ công ấy lại thành tên một vùng đất? Có lẽ xưa kia Sịa là nơi trồng nhiều cau chăng? Cái tên nôm na ấy trở thành nổi tiếng từ hàng trăm năm nay. Người ta hay nói “Nhất Huế, nhì Sịa”. Các Mẹ Huế cho rằng: “Nói rứa là để chọc ghẹo dân Sịa thường hay khoe quê mình “Trạng thiên trạng địa, trạng từ chợ Sịa trạng về”. Nhưng trên thực tế thì về mức độ sầm uất, giàu có thì “Nhất Huế nhì Sịa” thật! Cái gì ở Huế có thì Sịa cũng có, cũng hay không kém. Sịa có hò mái nhì, mái đẩy, hò giã gạo... có hội kéo co, chơi đu, đua ghe, hội vật Thủ Lễ đầu xuân hấp dẫn không kém hội vật làng Sình. Về văn hóa ẩm thực, Sịa có bánh tráng, bánh Ô Sa, bánh ướt thịt heo Phủ Lễ, tôm chua chợ Sịa... Đặc biệt, các món hải sản phá Tam Giang “không nơi nào sánh được” với đủ thứ tươi ngon có tiếng: Cá dìa, cá nâu, cua gạch, cá hanh, lệch huyết, lệch mỡ... Đất Tam Giang là đất học, đất làm quan. Vùng đất sông nước phá Tam Giang nắng gió ấy là nơi sinh ra những người con lừng danh của dân tộc như: Đặng Tất, Đăng Dung, Trần Thúc Nhẫn, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu... Đặc biệt, bà Hoàng Thái Hậu cuối cùng của triều Nguyễn là Đoan Huy Hoàng Thái hậu (tức Đức Từ Cung), tên thật là Hoàng Thị Cúc, vợ vua Khải Định... Năm Cảnh Thịnh thứ 6 (1797) riêng làng Thủ Lễ đã có đến 54 người được triều Tây Sơn bổ làm quan,... Làng Thủ Lễ của Sịa có hai đền Văn Thánh và Võ Thánh, đó là một điều mà không phải ở một làng quê nào có được, trừ Kinh Đô Huế. Nếu ở làng Mỹ Lợi cuối phá Tam Giang có đình làng Mỹ Lợi rất bề thế được xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia thì Đình làng Thủ Lễ có lịch sử gần 150 năm cũng được xếp hạng Di tích quốc gia là một trong những đình làng lớn bên Tam Giang. Nhắc chút ít lịch sử vùng đất Tam Giang để hiểu thêm rằng đây là miền đất trầm tích văn hóa cần phục hồi...
2. Phá Tam Giang - Cầu Hai diện tích 22.000 ha, dài 70km, từ cửa sông Ô Lâu, đầu H. Phong Điền đến chân đèo Hải Vân. Vùng đất ngập mặn mênh mông lớn nhất Đông Nam Á này là tài nguyên kinh tế - du lịch lớn, là “mỏ vàng” lộ thiên khổng lồ chưa được khai thác bao nhiêu. Từ thời Minh Mạng, nhà vua đã cho khắc bia đá cắm ở đầm Cầu Hai, phần cuối phá Tam Giang rằng nơi đây mặt nước thịnh vượng giàu có. Tấm bia hiện vẫn còn. Tam Giang là nơi phát triển nghề nuôi trồng thủy sản xuất khẩu lớn. Các loài chim ở Tam Giang cũng là cả một thế giới. Ở đây chim nước tập trung mật độ cao thành sân chim ở ba khu vực cửa sông Ô Lâu, sông Truồi và đầm Sam. Vào mùa đông số lượng có thể lên đến mấy vạn con. Người ta đã từng bắt gặp những đàn ngỗng trời 500 con, vịt trời 1.000 con, sâm cầm có đàn tới 3.000 con và rất nhiều loài quý hiếm như Diệc lửa, Ó lá, Cắt lưng hung,...
Phá Tam Giang là tài nguyên du lịch lớn chưa được khai thác. Từ Huế, khách du lịch có thể đi đò tham quan các di tích danh thắng trên Tam Giang như làng Cổ Phước Tích ở Phong Điền, làng nghề đan lát Bao La, làng Ngư Mỹ Thạnh đan lưới, làm mắm, tham quan sân chim Quảng Thái ở cửa sông Ô Lâu, tham quan ngôi nhà chồ Tam Giang còn sót lại của ông Phan Trai ở Quảng Ngạn. Từ xa xưa, nhà chồ là đặc trưng nhà ở của cư dân vạn đò trên Tam Giang. Là loại nhà dựng trên nước. Du khách cũng có thể tham quan 3 hồ nước ngọt tại Hải Dương, tham Tháp Chăm Phú Diên, khu lăng mộ An Bằng (Phú Vang), chùa Túy Vân, làng Mỹ Lợi (Phú Lộc),... Hay câu cá qua đêm trên Phá Tam Giang-Cầu Hai...
3. Đứng trên cầu Ca Cút nhìn xa về phía biển, chợt nhớ mấy câu hát xưa: Chiều trên phá Tam Giang, .. nhớ ôi niềm nhớ ôi niềm nhớ đến bất tận... Cái tên Ca Cút cũng bắt đầu từ một nỗi nhớ nhung da diết như vậy. Dân Sịa kể rằng, ngày xưa có người vợ tần tảo lo bới xách cho chồng về Kinh thi hội. Nhưng khi người vợ lo xong cơm bới, đến bến đò thì đò đã ra giữa phá. Vừa thương chồng vừa ân hận, người vợ kêu đò, kêu mãi kêu mãi hết ngày lại đến đêm rồi chết rũ bên bến mà thành loài chim “ca cút”... cứ kêu hoài: “Đò ơi, đò ơi...”. Bây giờ thì qua Phá Tam Giang-Cầu Hai có đến 4 chiếc cầu hiện đại. Tam Giang như gần lại trong mỗi bước chân người.
Tôi cứ mường tượng Tam Giang sau này sẽ thành “biển đẹp” giữa lòng thành phố. Sẽ có những phố thị hiện đại mọc lên hai bên bờ phá . Rồi vườn hoa, vườn tượng, nhà bảo tàng các danh nhân vùng Tam Giang, khu vui chơi giải trí, siêu thị... Lúc đó sẽ không còn cảnh nò sáo chằng chịt như ma trận bây giờ. Toàn bộ cư dân Tam Giang sẽ làm việc trên các hồ nuôi trồng thủy sản, trong các nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu, trong các khu du lịch. Tam Giang sẽ xanh trong mênh mông trở lại, cá tôm sẽ sinh sôi trở lại. Những sân chim, những khu rừng dưới nước sẽ được bảo vệ nghiêm ngặt, làm cho mênh mông sóng dữ Tam Giang trở nên thân thiết, gần gũi với con người.
Không biết là tôi có mơ mộng quá không, hay vì gió nước Tam Giang thầm thì với tôi như vậy?
Ngô Minh