Nhiều khác biệt về quyền của trẻ em khuyết tật trong pháp luật quốc gia và quốc tế
(Cadn.com.vn) - Ngày 15-12, tại Đà Nẵng, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh- Thiếu niên- Nhi đồng của Quốc hội đã phối hợp với Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (LHQ) tổ chức Hội thảo “Quyền của trẻ em khuyết tật trong pháp luật quốc gia và quốc tế” với sự tham gia của các Đại biểu Quốc hội, HĐND, Ban soạn thảo dự án Luật Người khuyết tật (NKT), đại diện Sở LĐ-TB&XH các tỉnh, thành phố khu vực miền Trung- Tây Nguyên. Tại Hội thảo, nhiều vấn đề về thực hiện quyền của trẻ em khuyết tật (TEKT), chính sách pháp luật đối với TEKT ở nước ta, các chuẩn mực quốc tế về NKT, so sánh với pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế đã được các đại biểu tập trung thảo luận.
Quyền của TEKT phải được thể hiện từ định nghĩa
TEKT là nhóm trẻ em dễ bị tổn thương nhất, họ có quyền bình đẳng trong hưởng thụ quyền con người và các tự do cơ bản như tất cả mọi trẻ em khác, tuy nhiên trên thực tế, đối tượng này vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống và nhiều khi quyền và lợi ích hợp pháp của họ lại bị phớt lờ, thậm chí bị vi phạm. Pháp luật quốc gia, Nhà nước Việt
Tuy nhiên, tại báo cáo nghiên cứu so sánh pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền của TEKT do Viện Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh cho thấy, quyền của NKT nói chung và TEKT nói riêng phải được thể hiện ngay ở định nghĩa của đối tượng này.
TS Tường Duy Kiên, Viện Nghiên cứu quyền con người cho biết: Về định nghĩa NKT- TEKT, công ước của LHQ về quyền của NKT xác định “NKT bao gồm những người bị suy giảm về thể chất, thần kinh, trí tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có quan hệ tương hỗ với hàng loạt những rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của NKT vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”. Công ước LHQ về quyền trẻ em cũng định nghĩa: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật quốc gia áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
Còn với pháp luật Việt Nam, theo Pháp lệnh Người tàn tật năm 1998, Điều 1 quy định: “NTT không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn”, Luật Bảo vệ, chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004, quy định: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Như vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật Việt
Trong khi đó lại có sự khác nhau về độ tuổi của trẻ em giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, do đó TEKT được bảo hộ theo pháp luật quốc tế là người dưới 18 tuổi, còn theo pháp luật Việt
Ông Nguyễn Xuân Lập, Phó Cục trưởng Cục BTXH, Bộ LĐ-TB&XH phân tích những chính sách liên quan đến TEKT tại Hội thảo.
Mới chỉ có 20% TEKT Việt
Ông Hoàng Văn Bình, Phó Vụ trưởng Vụ Văn hóa Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng cho biết: Việt Nam hiện có 5,3 triệu NKT, chiếm 6,34% dân số, trong đó, theo số liệu thống kê năm 2008, có 1,2 triệu người là TEKT, TEKT trí tuệ có tỷ lệ cao nhất trong tổng số TEKT, tuy nhiên, công tác giáo dục cho đối tượng này còn nhiều bất cập, theo thống kê ở nước ta, mới chỉ có 20% TEKT được đến trường.
Phân tích những nguyên nhân dẫn đến vẫn còn một bộ phận lớn TEKT chưa tiếp cận được với dịch vụ giáo dục, nhất là ở địa bàn nông thôn, ông Nguyễn Xuân Lập, Phó Cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội, Bộ LĐ-TB&XH cho rằng, nguyên nhân chính là do điều kiện kinh tế, đời sống vật chất, tinh thần của NKT còn nhiều khó khăn, có tới 37% NKT đang sống trong các hộ nghèo (cao gấp 3 lần so với tỷ lệ nghèo chung cùng thời điểm), nhận thức của xã hội về tầm quan trọng của công tác giáo dục TEKT chưa cao, các cơ sở giáo dục hòa nhập và chuyên biệt còn hạn chế về số lượng, phân bổ không đồng đều dẫn đến chất lượng hỗ trợ, giáo dục cho TEKT còn nhiều hạn chế.
Trong khi đó, các trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập TEKT mới được thành lập lại chưa đủ đảm bảo về số lượng, năng lực, lại chỉ tập trung ở một số tỉnh nên chưa hình thành được mạng lưới hỗ trợ cho TEKT. Tình trạng TEKT đã được đi học nhưng do chất lượng đào tạo hạn chế, nhiều trẻ đến trường chỉ để vui chơi nên tỷ lệ TEKT bỏ học rất cao: hơn 20% ở bậc tiểu học và 30% ở bậc THCS. Chính những khó khăn này đã cản trở NKT được tiếp cận với các dịch vụ y tế, giáo dục, học nghề cũng như tìm kiếm việc làm, tham gia giao thông...
Nhiều ý kiến cũng cho rằng, vấn đề giáo dục đối với TEKT mới chỉ được phổ biến ở mầm non, tiểu học, việc tiếp nhận học sinh khuyết tật còn nhiều khó khăn, chương trình giáo dục dành cho TEKT cũng chưa được quan tâm và còn nhiều hạn chế.
Ông Hoàng Văn Bình cho biết: Dự thảo Luật NKT sẽ tiếp tục lấy ý kiến đồng thời phân tích, so sánh, tham khảo pháp luật quốc tế với pháp luật Việt Nam nhằm hoàn thiện các quy định liên quan đến TEKT, quyền của TEKT, trong đó có quyền được học tập của trẻ em. Rất nhiều TEKT chưa có cơ hội được đến trường học tập, dự thảo luật hoàn thiện các cơ chế chính sách sẽ nhằm động viên, thu hút các em đến trường học tập. Đây sẽ là điều kiện tốt giúp các em có nhiều cơ hội tham gia vào các hoạt động xã hội, hòa nhập cộng đồng...
Bài, ảnh: Minh Vân