Những bài thơ viết nơi chiến trận

Thứ hai, 28/04/2008 00:00

Kỷ niệm 33 năm Ngày Giải phóng hoàn toàn miền nam thống nhất đất nước 30-4-1975 – 30-4-2008:

(Cadn.com.vn) - “Mai này ta khuất núi, ai là người đọc thay?”, đó là câu thơ chợt bật ra từ trái tim của Lê Bá Dương trong một đêm lửa trại truyền thống nhân ngày thành lập Trung đoàn 27 – Triệu Hải (nguyên là Trung đoàn 27- Xô Viết Nghệ Tĩnh) khi cùng đồng đội nổi hứng đọc thơ trận mạc cho nhau nghe- những câu thơ viết mộc mạc như văn vần của đồng đội - những người còn sống và của rất nhiều người đã mãi mãi ra đi...

Vậy mà rất nhiều bài thơ rứt lòng của đồng đội đã đọc cho nhau nghe ở trận địa, trước lúc hy sinh, giờ những người còn sống vẫn câu nhớ, câu quên… Chính ý tưởng mong muốn ghi lại, chép lại để lưu giữ và chuyển giao những ký ức vô giá về một thời hào hùng và bi tráng của dân tộc đã in đậm trong trái tim đồng đội, người cựu chiến binh ấy đã cất công bao nhiêu năm trời lặn lội, tìm gặp và cẩn thận ghi chép lại từng câu, từng chữ còn lưu giữ trong ký ức của những đồng đội đang sống ở khắp mọi miền đất nước để tập hợp in thành tập sách: “Nhật ký viết bằng văn vần” của Trung đoàn 27 – Triệu Hải ra mắt bạn đọc đầu năm 2008. Vào dịp cuối năm Đinh Hợi, khi mọi người đang tất bật lo toan với bao công việc cơ quan, gia đình thì đột nhiên tôi nhận được điện thoại của anh Tư Lê (Lê Bá Dương) gọi báo tin vừa hoàn thành tập sách – tâm niệm bao nhiêu năm nay của anh và đồng đội.

Anh bảo: “Tết này, anh ăn Tết ngon rồi đây” rồi cười sung sướng! Mà không vui sao được khi Tết này biết bao người thân của các liệt sĩ, bao đồng đội của Trung đoàn 27 năm xưa được “đón” người thân, đồng đội về ăn Tết bằng những câu thơ dứt dạ, rứt lòng viết trước lúc hy sinh. Một phần tâm hồn, cuộc sống, tình yêu và lý tưởng của các anh vẫn còn đây, rất thật bằng những dòng nhật ký viết bằng thơ... “Món quà” như vậy hỏi còn gì có thể quý giá hơn! Đó là kết quả bao nhiêu năm ròng Lê Bá Dương xuôi Nam, ngược Bắc, đến cả những vùng đất xa xôi hẻo lánh nhất để tìm gặp, ghi chép lại những di vần viết bằng máu của các liệt sĩ đã gửi lại nhân gian qua những người bạn cùng chiến đấu năm xưa.

Chính nhờ tấm lòng ấy, tâm nguyện ấy của Lê Bá Dương mà hôm nay tôi và các thế hệ sinh ra sau chiến tranh được hiểu, được “thấy” một cách rất chân thực về cuộc chiến thần thánh của dân tộc qua những vần thơ – nhật ký, trang viết của những người lính. Tôi thực sự cảm động và bị cuốn hút ngay từ trang đầu, đọc một mạch cho đến trang cuối cùng.

“Nhật ký viết bằng văn vần” xúc động và cuốn hút bởi đó là những câu chữ “trải lòng” rất thật, rất hồn nhiên trong thời điểm giữa những khoảng trống hai trận đánh của những người lính. Nhà thơ Giang Nam đã nhận xét: “Tác giả của Trung đoàn không có ý định “làm” văn học, mà chỉ là ghi lại những câu chuyện thật, những rung động sâu sắc của mình giữa hai trận đánh khốc liệt, giữa sống, chết cận kề”.

Cũng chính vì vậy mà người đọc có thể thấy bóng dáng, giọng nói, tiếng cười; nỗi nhớ thương da diết quê hương, cha mẹ vợ con; tình yêu và khát vọng hiến dâng cho Tổ quốc trường tồn... của những người lính hiện lên rờ rỡ tươi nguyên như chưa từng khuất xa hàng mấy chục năm trời. Điều đặc biệt là tình cảm đồng đội ở “chiến trường xa, như thể một nhà", vậy nên có đến nửa số bài thơ của các liệt sĩ viết cho... liệt sĩ theo trình tự: người hy sinh sau viết thay cho nén hương lòng viếng người hy sinh trước.

Những bài thơ như “Thương lắm Tài ơi!” (Hoàng Đình Hiền), “Tửu ơi” (Đặng Việt Quân), đặc biệt bài “Nhớ Chế Đình Hồng” của Doãn Hữu Tiềm viếng đồng đội hy sinh khi đánh chặn địch trên đường 9 (tháng 8-1969), đã viết lại rất cụ thể những giây phút cuối cùng của liệt sĩ Hồng: “Một loạt AK nổ đanh, anh diệt thêm 3 tên giặc Mỹ/ Giặc vừa lui, Hồng xông lên thu vũ khí/ Nhưng đạn thù cũng vừa tới nơi/ Trúng đạn, hy sinh môi vẫn nở nụ cười”. Vậy mà, 3 năm sau (1972), Doãn Hữu Tiềm cũng đã anh dũng hy sinh trong chiến dịch giải phóng Quảng Trị. Những cái tên “rất anh hùng và rất đỗi thân thương” hiện lên trong từng câu thơ của đồng đội: “Cao Như Thiêm, Chế Đình Hồng/Xông pha trận mạc, vẫn không sờn lòng/ Đây Hồ Sỹ Thảo, kia Cấn Xuân Lành/ Mấy lần xuất trận lập công mang về/ Cao Sỹ Nhàn say mê đánh giặc/ Vì nước non đâu tiếc gì thân...” (Tặng đồng đội D2 – Đặng Việt Quân). Chúng ta gặp được khá nhiều câu thơ như lời nguyện của Mai Khanh khi anh tiễn bạn lên chốt: “Nếu được chết, xin một lần được chết/Cho đồng đội tôi trở về bình yên...”.

Tôi đã rất xúc động khi đọc bài “Gửi con liệt sĩ” của Trần Xuân Gứng viết cho con trai chưa một lần được thấy mặt của mình trước khi bước vào trận quyết chiến với quân thù, bởi rất có thể ông sẽ ngã xuống và những dòng thơ này sẽ là huyết thư của một người cha liệt sĩ gửi lại cho con: "Cha có chết đi, con cứ thế/ Theo đường cha đã chọn mà đi/ Con đừng phân vân so sánh thiệt hơn gì/ Con tin Đảng, đi theo đường của Đảng”. Sức mạnh thần kỳ làm nên chiến thắng của dân tộc được bắt nguồn từ những điều giản dị và chân thật đến vậy!

 Đồng đội Tiểu đoàn 2 (Nghệ An Đỏ) thăm chiến trường xưa đang làm
lễ thả hoa tại bến Tắt – thượng nguồn  sông Bến Hải.

Và rồi, có lúc người đọc cảm thấy thú vị khi được “nghe” cuộc tán gẫu của những người lính trên chốt mùa mưa: “Sau những đợt pháo rơi, đất nắp hầm tụt xuống, Hường nghĩ về chân ruộng/ Nghe tiếng mưa rơi trên mái tôn, Nhâm nói “róc rách như tiếng nguồn con suối”/ Nghe tiếng ếch kêu, tôi hỏi?/ Và Hòa sôi nổi:/Con chẫu chàng, nấu cháo thịt thơm hơn”. Những câu thơ không lệ thuộc niêm luật, vần điệu của những “nhà thơ” vốn trước đây chỉ quen cầm cuốc cầm cày nhưng sao lay động và xúc cảm đến thế! Những chàng lính trẻ trung lạc quan tếu táo với đồng đội, gan dạ kiên cường khi đối mặt với quân thù cũng có lúc chợt dịu hiền như lụa khi nhớ đến nao lòng ánh mắt của một thiếu nữ như bài “Nhớ” của liệt sĩ Doãn Hữu Tiềm viết vào một đêm tháng 3-1969, khi anh ôm súng cùng đồng đội chốt giữ cao điểm 182: “Chưa có người yêu đã nhớ/ Nhớ có khác mấy là yêu/ Cô gái dịu hiền tròn xinh đôi mắt/ Má lúm đồng tiền, hai trái bồ quân”…

Phần hai của “Nhật ký viết bằng văn vần” là những bài viết kể về những kỷ niệm đồng đội, các trận đánh kiên cường mà trong đó có hình ảnh, tên đất, tên người cụ thể. “Nhật ký viết bằng văn vần” là những cảm xúc được viết thành thơ, văn... được chép lại trên nền sự kiện của những người lính sư đoàn đã trải qua thời binh lửa. Nếu nhìn toàn bộ cuốn sách, nó vừa như một tập hợp nhật ký bằng văn vần được viết chung, có cả những minh họa bằng ảnh thực về con người, sự kiện. Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài báo, tôi rất tiếc không thể chuyển tải được nhiều hơn “di vần” của các liệt sĩ, những người lính Trung đoàn Nghệ An Đỏ năm xưa đến với bạn đọc! Rất may, mới đây, tôi lại nhận được tin vui từ anh Tư Lê, sau khi “Nhật ký viết bằng văn vần” xuất bản đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của đông đảo bạn đọc, đồng đội, đồng bào cả nước, đồng thời nhiều người hiện đang lưu giữ nhiều kỷ vật, trang viết của các liệt sĩ,... đã gửi cho anh và hiện anh đang bổ sung để chuẩn bị tái bản.

Thế mới hiểu, mới thấu những sự hy sinh cao cả không bao giờ bị lãng quên, nó là mạch nguồn chảy mãi trong huyết quản của mỗi người, trong lòng đất Mẹ – Tổ  quốc Việt Nam.

An Nhiên