Những nguy cơ trong việc bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia
(Cadn.com.vn) - Cũng như nhiều nước trên thế giới và trong khu vực, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức liên quan đến nguồn nước.
Việt Nam có 108 lưu vực sông với khoảng 3.450 sông, suối tương đối lớn. Tổng lượng nước mặt trung bình năm của Việt Nam khoảng 830 tỷ m3 được tập trung chủ yếu trên 9 lưu vực sông lớn, bao gồm sông Hồng, sông Thái Bình, sông Bằng Giang - Kỳ Cùng, sông Mã, sông Cả, sông Vu Gia - Thu Bồn, sông Ba, sông Đồng Nai và sông Cửu Long. Khoảng 63% nguồn nước mặt của Việt Nam (tương ứng với 520 tỷ m3) được sản sinh ở nước ngoài, chỉ có gần 310 tỷ m3 mỗi năm được sản sinh trên lãnh thổ Việt Nam.
Tổng trữ lượng tiềm năng nguồn nước dưới đất khoảng 63 tỷ m3/năm. Tổng lượng nước đang được khai thác, sử dụng hàng năm khoảng 80,6 tỷ m3, chiếm xấp xỉ 10% tổng lượng nước hiện có của cả nước. Trong đó, hơn 80% lượng nước được sử dụng cho mục đích nông nghiệp (khoảng 65 tỷ m3/năm). Nước dưới đất được khai thác sử dụng chủ yếu cho cấp nước sinh hoạt và công nghiệp với gần 40% lượng nước cấp cho đô thị, khoảng gần 80% lượng nước sử dụng cho sinh hoạt nông thôn.
Theo Bộ TN&MT, nguồn nước có nguy cơ bị ô nhiễm, suy thoái, khan hiếm, cạn kiệt. Trong ảnh: Cửa sông Phú Lộc, TP Đà Nẵng, một trong những con sông bị ô nhiễm suốt nhiều năm. |
Theo Thứ trưởng Bộ TN&MT Nguyễn Thái Lai: Nếu chỉ xét riêng tổng lượng nước hàng năm của cả nước, có thể lầm tưởng rằng Việt Nam là quốc gia có tài nguyên nước dồi dào. Tuy vậy, theo chỉ tiêu đánh giá của Hội Tài nguyên nước Quốc tế thì quốc gia nào có lượng nước bình quân đầu người dưới 4.000m3/người/năm là quốc gia thiếu nước. Nếu chỉ tính riêng lượng tài nguyên nước mặt sản sinh trên lãnh thổ thì ở thời điểm hiện nay, Việt Nam đã thuộc các quốc gia thiếu nước và sẽ gặp phải rất nhiều thách thức về tài nguyên nước trong tương lai gần.
Xét theo đặc điểm phân bố lượng nước theo thời gian, không gian cùng với đặc điểm phân bố dân cư, phát triển kinh tế, mức độ khai thác, sử dụng nước, có thể thấy rằng tài nguyên nước của Việt Nam đang phải chịu rất nhiều sức ép, tiềm ẩn nhiều nguy cơ trong việc bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia. Phần lớn các hệ thống sông lớn của Việt Nam đều là các sông có liên quan đến nước ngoài. Phần diện tích nằm ngoài lãnh thổ của các lưu vực sông quốc tế chiếm hơn 70% tổng diện tích toàn bộ các lưu vực sông. Trong bối cảnh các nước ở thượng lưu đang tăng cường xây dựng các công trình thủy điện, chuyển nước và xây dựng nhiều công trình lấy nước, chắc chắn nguồn nước chảy về Việt Nam sẽ ngày càng suy giảm và Việt Nam sẽ không chủ động, phụ thuộc vào các nước ở thượng lưu.
Tài nguyên nước phân bố không đều theo cả không gian và thời gian đã dẫn đến xuất hiện các vấn đề khan hiếm và thiếu nước trong mùa khô. Cụ thể là theo không gian, khoảng 60% nước mặt Việt Nam thuộc đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), hơn 20% thuộc sông Hồng và sông Đồng Nai, lượng nước tập trung chủ yếu vào mùa mưa. Theo thời gian, mùa khô thường kéo dài từ 6 đến 9 tháng, lượng dòng chảy tự nhiên trong mùa khô chỉ chiếm 20-30% tổng lượng dòng chảy cả năm. Phân bố lượng nước giữa các năm cũng biến đổi rất lớn, trung bình cứ 100 năm thì có 5 năm lượng nước chỉ bằng khoảng 70-75% lượng nước trung bình nêu trên.
Việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước chưa hợp lý và thiếu bền vững dẫn đến tình trạng suy giảm tài nguyên nước trong khi hiệu quả sử dụng nước còn thấp. Việc khai thác các hồ chứa thủy lợi cho tưới nông nghiệp, thủy điện đang gây ra nhiều vấn đề về chia sẻ nước trên lưu vực, cấp nước và duy trì dòng chảy môi trường hạ du. Việc khai thác nước dưới đất thiếu quy hoạch, khai thác quá mức là một trong những nguyên nhân gây ra hiện tượng sụt lún nền đất cục bộ ở một số đô thị như Hà Nội, TPHCM và một số khu vực vùng ĐBSLC.
Nhu cầu sử dụng nước gia tăng trong khi nguồn nước có nguy cơ bị ô nhiễm, suy thoái, khan hiếm, cạn kiệt. Nguồn nước mặt ở nhiều khu vực đô thị, khu công nghiệp, làng nghề đều đã có dấu hiệu ô nhiễm cục bộ, nhiều nơi ô nhiễm nghiêm trọng, như lưu vực sông Nhuệ Đáy, sông Cầu và sông Đồng Nai - Sài Gòn. Nhiễm bẩn, ô nhiễm nguồn nước dưới đất từ ô nhiễm nước mặt, ô nhiễm đất; nhiễm mặn, cạn kiệt nguồn nước dưới đất do khai thác nước có xu hướng gia tăng, nhất là tại các khu vực đô thị, khu dân cư, làng nghề, ven biển của đồng bằng Bắc Bộ, Nam Bộ, ven biển miền Trung.
Vấn đề ô nhiễm Asen trong nguồn nước dưới đất là một trong những nhiệm vụ quan trọng cần giải quyết của Việt Nam. Theo kết quả nghiên cứu, phân tích, điều tra, đánh giá của Bộ TN&MT từ gần 323 ngàn mẫu phân tích tại 6.938 xã trên địa bàn 660 huyện thuộc 63 tỉnh, thành phố trên cả nước, có 12,5% số mẫu có hàm lượng Asen từ 0,05 mg/l trở lên, vùng đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ cao nhất (18,7%), vùng Tây Bắc có tỷ lệ thấp nhất (0,1%). Tại 1.385 xã trên địa bàn 54 tỉnh (chiếm 12,5%) phát hiện ít nhất một mẫu có hàm lượng Asen từ 0,05 mg/l trở lên.
Hoạt động đào đãi vàng gây ô nhiễm nguồn nước. |
Đặc biệt, biến đổi khí hậu gia tăng đang gây ra những tác động sâu sắc đến tài nguyên nước. Việt Nam là một trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, có khả năng tác động mạnh lên tài nguyên nước và làm cho những vấn đề vốn rất nghiêm trọng nêu trên đây càng nghiêm trọng hơn, nhiều vấn đề về tài nguyên nước hiện chỉ tiềm ẩn ở dạng các nguy cơ thì có thể trở thành hiện thực nay mai.
Theo dự báo, tác động của biến đổi khí hậu sẽ làm dòng chảy trong mùa khô ở vùng ĐBSCL (chỉ tính riêng lượng nước phát sinh trong vùng) suy giảm khoảng 4,8% vào năm 2020, giảm 14,5% vào năm 2050 và khoảng 33,7% vào năm 2100. Những tác động nêu trên, cùng với tác động của biến đổi khí hậu và nhu cầu sử dụng nước của các quốc gia đều tăng lên mạnh mẽ trong những năm tới thì tình trạng thiếu nước, khan hiếm nước sẽ ngày càng gia tăng.
Mặc dù chưa được đánh giá một cách đầy đủ, nhưng có thể khẳng định biến đổi khí hậu đã và đang là một thách thức lớn nhất, hiện hữu đối với việc bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, phát triển bền vững của Việt Nam và đe dọa an ninh lương thực thế giới.
Để ứng phó hiệu quả với các thách thức trên, Việt Nam đề cao việc bảo vệ và quản lý nguồn nước, coi đây là một nội hàm quan trọng của “Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020” và đang triển khai “Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020”.
Đồng thời, Việt Nam đã và đang nỗ lực đóng góp trên bình diện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này, từ khuôn khổ song phương, tiểu vùng, liên khu vực và toàn cầu; tích cực tham gia các cơ chế hợp tác ASEAN về quản lý nguồn nước, hợp tác APEC về ứng phó với thiên tai, đồng sáng kiến Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) thúc đẩy hợp tác, trao đổi kinh nghiệm về quản lý nguồn nước giữa các quốc gia ven sông Mê Kông và Đa-nuýp...
Xuân Trường