Tấm lòng kiên trung và tâm hồn thơ của người cán bộ lão thành cách mạng
(Cadn.com.vn) - Hơn 70 năm tuổi Đảng, từng trải qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, được tặng thưởng nhiều huân chương cao quý của Đảng, Nhà nước, người cán bộ lão thành cách mạng Lê Thanh (1922) là tấm gương sáng để các thế hệ trẻ noi theo. Điều đặc biệt là bao nhiêu xúc cảm cuộc đời được ông thể hiện qua tập thơ "Tiếng lòng". Tác phẩm đã gói gọn lòng kiên trung, dũng cảm và những kỷ niệm sống, chiến đấu và hành động dưới ngọn cờ của Đảng, Nhà nước và niềm tin yêu đối với cuộc đời của ông…
Rưng rưng nước mắt ngày độc lập
Vào một buổi chiều cuối tháng 8, trong không khí náo nức của toàn dân đón chào những ngày lễ lớn của đất nước, tôi đến gặp ông Lê Thanh (trú tổ 44 Bình An II, P. Hòa Cường Bắc, Q. Hải Châu, Đà Nẵng). Ông Lê Thanh đã bước qua tuổi “xưa nay hiếm”, nhưng trước mắt tôi là một người đàn ông cao to, khuôn mặt hồng hào đầy sức sống.
Ông Lê Thanh sinh ra và lớn lên ở Điện Hòa (Điện Bàn, Quảng
Ông kể: “Vào hồi đó, khi bị địch bắt giam, tôi và đồng đội bị đánh đập tàn nhẫn, nhiều người bị chết thật thảm. Nhưng chúng tôi không chịu khuất phục. Chúng tôi nghĩ không được chiến đấu ở ngoài thì ở trong tù vẫn có thể chiến đấu, vì vậy anh em đã cùng nhau đoàn kết đấu tranh với kẻ địch”. Đến tháng 6-1945, ông Lê Thanh ra tù. Vào thời điểm này, đồng chí cùng Chi ủy là Phạm Tấn Chí cũng được thả. “Khi có chủ trương tổng khởi nghĩa, tôi cùng đồng chí Phạm Tấn Chí tổ chức lại lực lượng đồng thời cùng các chi bộ khác vận động quần chúng rèn giáo mác, may cờ... để chuẩn bị cướp chính quyền” - ông Thanh nhớ lại.
![]() |
Tập thơ "Tiếng lòng" và những xúc cảm cuộc đời. |
Đến ngày 8-8-1945, Lê Thanh tổ chức mọi người cướp chính quyền ở xã, sau đó kết hợp với các xã khác kéo về Vĩnh Điện rồi xuống Hội An. Trên chặng đường cùng đoàn biểu tình kéo về Hội An, quân tiếp viện của địch kéo từ Nam ra đã bắn xối xả vào đoàn biểu tình khiến nhiều người bị thương và hy sinh, trong đó có em gái của ông là Lê Thị Mai. Đoàn biểu tình với vũ khí thô sơ nên buộc phải tản ra chờ bọn chúng rút, mới tập hợp lại kéo xuống Hội An cướp chính quyền. Sau khi cướp chính quyền, ông được bầu giữ chức Chủ nhiệm Việt Minh Tổng Thanh Quýt (nay là Điện Bàn). Đến tháng 12- 1945, ông được điều giữ chức Bí thư Hội nông dân cứu quốc Quảng
“Vào ngày 2-9-1945, chúng tôi tổ chức mít-tinh và chờ nghe Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập. Lúc nghe Bác đọc bản tuyên ngôn qua cái đài cũ, chúng tôi ai cũng rưng rưng nước mắt hòa trong niềm vui sướng tột cùng. Nước Việt
“Tiếng lòng” của người cán bộ kiên trung
Trong suốt cuộc đời cách mạng của mình, dù ở bất cứ cương vị nào ông Lê Thanh cũng đã làm tốt nhiệm vụ của mình. Ông đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng những huân chương cao quý, Huân chương KHÁNG chiến chống Pháp hạng Nhất (1961), Huân chương KHÁNG chiến chống Mỹ hạng Nhất (1987), Huân chương Độc lập hạng Ba (1986), Huy hiệu 70 năm tuổi ĐảNG... cùng các bằng khen, phần thưởng cao quý khác.
Ông kể: “Năm 1952 tôi về làm Trưởng CAH Tam Kỳ, cuối năm 1954 ra bắc làm việc ở Phòng trinh sát của Bộ CA. Năm 1958, giữ cương vị Phó phòng trinh sát, sau đó được cử sang Liên Xô học ở Đại học Cảnh sát Liên Xô. Năm 1961 tôi về nước và biệt phái sang làm việc ở tổ chức T.Ư làm công tác bảo vệ Đảng. Sau 10 năm thì chuyển hẳn sang Ban tổ chức T.Ư. Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, tôi được cấp trên cử về thành lập tổ công tác phụ trách bảo vệ Đảng khu V, Tây Nguyên. Đến năm 1981, tôi nghỉ hưu”.
![]() |
Cuộc sống đời thường vui vầy bên con cháu của người cán bộ lão thành cách mạng Lê Thanh. |
Sau khi nghỉ hưu ông tiếp tục tham gia hoạt động tại địa phương, như công tác MặT trận, tổ trưởng Đảng, Chủ nhiệm Câu lạc bộ thơ P. Hòa Cường Bắc. Không những sáng suốt trong công việc mà trong thơ luôn mang đậm tấm lòng sắt son của người lão thành cách mạng. Với tập thơ Tiếng lòng, Lê Thanh đã mang đến cho đời một tấm chân tình thật đáng trân trọng và cảm động. Viết về Đảng, về Bác, về hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm... luôn hào hùng và đầy cảm xúc. Những bài thơ đã để lại nhiều xúc động cho người đọc như: “Bác đã đi xa” (9-1969), “Vui lên đường” (1973), “Đảng là niềm tin và hy vọng” (18-4-2006),... Thơ của ông không chỉ nói lên nỗi lòng của mình mà còn là những bài học quý báu, những lời khuyên răn cho các con, các cháu: “Viếng mộ cha” (2-2006), “Đêm trăng nhớ trẻ” (2-1989), “Tiễn con” (10-1967),...
Ông tặng tôi tập thơ Tiếng lòng, với lời dặn chân tình như người ông dặn cháu mình: “Lớp trẻ hôm nay có thể chưa hiểu nhiều về ngày xưa nhưng tinh thần thép thì cần phải có, nó giúp ta mạnh mẽ để vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Đồng thời đừng bao giờ quên những gì mà các thế hệ ông cha ta đã dựng nên bằng xương máu. Các cháu phải cố gắng để góp ích cho xã hội xây dựng đất nước ta giàu mạnh hơn. Hy vọng các cháu sẽ làm tốt và tôi tin vào điều đó”.
Đức Thọ