Trả hồ sơ vụ án "bến du thuyền" đề nghị làm rõ 20 tỷ đồng đã đi đâu?
Sáng 27-8, TAND TP Đà Nẵng xét xử sơ thẩm vụ án: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đối với 2 bị cáo: Nguyễn Nho Cầm (1963, trú P. Nam Dương, Q. Hải Châu, Đà Nẵng) và Phạm Phú Quyền (1962, trú Q. Tân Phú, TPHCM).
Theo cáo trạng, Công ty TNHH Du lịch Khương Lê (viết tắt: Công ty Khương Lê, địa chỉ Văn phòng giao dịch tại đường 3 Tháng 2, P. Thuận Phước, Q. Hải Châu) do ông Lê Bảo Khương làm người đại diện theo pháp luật kiêm chức vụ giám đốc. Năm 2018, UBND TP Đà Nẵng có chủ trương kêu gọi đầu tư Dự án Bến du thuyền khu vực cảng sông Hàn (P. Thạch Thang, Q. Hải Châu) nên ông Khương muốn Công ty Khương Lê được đầu tư vào dự án này.
Thông qua giới thiệu của ông Đinh Văn Tùng (trú P. Khuê Trung, Q. Cẩm Lệ, Đà Nẵng) để tìm hiểu về thủ tục, tính khả thi và ông Khương được Tùng giới thiệu gặp một số người (không rõ lai lịch) và được những người này dẫn đến gặp Phạm Phú Quyền. Mặc dù bản thân không có thẩm quyền, mối quan hệ có thể thực hiện được việc cấp quyết định đồng ý chủ trương đầu tư của UBND TP Đà Nẵng cho Công ty Khương Lê và biết Nguyễn Nho Cầm cũng không có khả năng này nhưng Quyền vẫn liên hệ Cầm và thống nhất việc làm thủ tục này cho Công ty Khương Lê. Quyền hướng dẫn ông Khương làm công văn đề xuất khai thác dự án bến du thuyền và nhà hàng ven sông Hàn gửi HĐND, UBND và lãnh đạo TP Đà Nẵng
Ông Khương giao văn bản này cho Cầm để gửi bằng đường công văn đến bộ phận một cửa của UBND TP Đà Nẵng và được lãnh đạo thành phố có bút phê góc trái công văn có nội dung: “chuyển Sở Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn”. Sau đó, Quyền gọi ông Khương đến TPHCM, đưa văn bản trên để ông Khương tin tưởng mình có mối quan hệ có thể xin cấp quyết định đầu tư dự án và yêu cầu ông Khương giao số tiền 2,7 tỷ đồng rồi viết giấy nhận tiền. Quyền nói ông Khương về Đà Nẵng, nội dung công việc đã trao đổi với ông Cầm để thực hiện.
Ngày 21-12-2018, ông Khương gặp Nguyễn Nho Cầm, hai bên đến Phòng giao dịch Ngân hàng Bản Việt trên đường Điện Biên Phủ (Đà Nẵng) lập “Biên bản thỏa thuận về việc xin cấp quyết định chấp thuận đầu tư dự án bến du thuyền tại khu vực Cảng sông Hàn, phường Thạch Thang, quận Hải Châu”; trong đó, bên A là Công ty Khương Lê do ông Lê Bảo Khương làm đại diện, bên B là Nguyễn Nho Cầm. Biên bản có nội dung: “Hai bên đồng ý thực hiện mở tài khoản chung với số tiền là 20 tỷ đồng tại Ngân hàng Bản Việt - PGD Thanh Khê; thời gian hiệu lực bắt đầu từ ngày chuyển tiền vào tài khoản đến hết ngày thứ 30. Bên A nhận được Quyết định về việc chấp thuận đầu tư của Dự án Bến du thuyền tại khu vực cảng Sông Hàn, phường Thạch Thang, quận Hải Châu do UBND TP Đà Nẵng cấp. Sau thời gian trên, nếu Bên A không nhận được Quyết định về việc chấp thuận đầu tư của Dự án Bến du thuyền này thì Bên A sẽ đưa ông Nguyễn Nho Cầm ra khỏi đồng chủ tài khoản tại Ngân hàng Bản Việt. Nếu Bên A nhận được Quyết định về việc chấp thuận đầu tư dự án của UBND TP thì hai đồng chủ tài khoản sẽ chuyển khoản cho ông Nguyễn Nho Cầm số tiền là 20 tỷ đồng có trong tài khoản chung này”.
Đến ngày 26-2-2019, Cầm và Quyền nói dự án sắp hoàn thành thủ tục, cần tiền để đẩy nhanh tiến độ để đề nghị ông Khương giải ngân số tiền 20 tỷ đồng tại Ngân hàng Bản Việt và cam kết chậm nhất đến ngày 30-3-2019, Công ty Khương Lê sẽ nhận được quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư dự án. Ông Khương tin tưởng nên cùng Cầm đến Ngân hàng Bản Việt làm thủ tục rút 20 tỷ đồng ra và giao cho Cầm. Sau khi nhận tiền, Cầm giao cho Quyền 2 tỷ đồng, số tiền còn lại Cầm khai sử dụng vào việc chi phí xin dự án nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh.
Đến ngày 30-3-2019, không thấy Cầm và Quyền giao Quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư dự án, ông Khương liên hệ hối thúc và được Cầm và Quyền nhiều lần hứa hẹn, tuy nhiên sau đó vẫn không có kết quả. Tổng cộng Nguyễn Nho Cầm và Phạm Phú Quyền nhận và chiếm đoạt của ông Lê Bảo Khương 27 tỷ đồng. Trong đó, Nguyễn Nho Cầm trực tiếp nhận 20 tỷ đồng, Phạm Phú Quyền trực tiếp nhận 7 tỷ đồng.
Tại phiên tòa, HĐXX rất nhiều lần xét hỏi các bị cáo liên quan số tiền hơn 20 tỷ đồng đã chiếm đoạt. Số tiền bị cáo đã chiếm đoạt được sử dụng như thế nào? Ông Cầm khai: “Thời gian rất nhiều, chi phí đi lại, chi phí cho dự án, không nhớ chi tiết cụ thể”. Xét thấy câu trả lời chưa thỏa đáng, HĐXX truy vấn: “Số tiền đặc biệt lớn, bị cáo nói như không vậy? Dòng tiền này chảy đi đâu, không thể nói chung chung là chi phí cho dự án. Bị cáo có đưa hối lộ cho ai không?”. Bị cáo Cầm khẳng định: “Bị cáo không đưa hối lộ ai”.
Còn bị cáo Quyền thì phủ nhận sự việc và nói bản thân không gian dối để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. HĐXX đã cho bị cáo Quyền và bị hại đối chất về số tiền 27 tỷ đồng Bị hại xác nhận bị lừa đảo chiếm đoạt 22,7 tỷ đồng. Còn số tiền khác hơn 4 tỷ đồng với ông Quyền là giao dịch dân sự… Bị hại cũng đề nghị phải làm rõ số tiền đã đi đâu, vai trò của những người liên quan rất quan trọng trong vụ việc này nhưng chưa được đề cập.
Sau khi hội ý, HĐXX TAND TP Đà Nẵng đã trả hồ sơ cho VKSND TP để điều tra bổ sung các nội dung như làm rõ dòng tiền đã đi đâu; làm rõ vai trò những người liên quan…
T.HOA