Trách nhiệm của thành viên, cổ đông đối với các khoản nợ công ty

Thứ hai, 23/12/2019 07:00

*Ông Đặng Ngọc Tâm, trú Q. Hải Châu (TP Đà Nẵng), hỏi: Tôi là chủ tịch HĐQT một công ty (Cty) cổ phần trước đây là doanh nghiệp nhà nước, nay đã cổ phần hóa và không còn  vốn của nhà nước. Do vậy, việc đăng ký vốn hay việc quản lý tài chính đều đúng theo quy định của pháp luật. Trong những năm qua, có nhiều đối tác, khách hàng không chịu thanh toán các khoản nợ cho Cty chúng tôi. Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết rằng, có nhiều Cty hoạt động kiểu "mượn đầu heo nấu cháo". Nghĩa là, trên giấy tờ thì vốn điều lệ họ rất cao nhưng thực tế thì không góp vốn được bao nhiêu. Vì vậy, trong những trường hợp này, tôi có quyền khởi kiện để yêu cầu các thành viên hay cổ đông của các Cty đó trả nợ cho Cty chúng tôi hay không?

*Thạc sĩ - Luật sư Lê Ngô Hoài Phong, Trưởng Chi nhánh Công ty Luật TNHH Phạm và Liên Danh tại Đà Nẵng, trả lời: Đối với trách nhiệm của thành viên trong Cty TNHH, Luật Doanh nghiệp 2014 có quy định, thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Cụ thể hơn, Khoản 2 và 4 Điều 48 của luật này quy định: Thành viên phải góp vốn phần vốn góp cho Cty đủ và đúng loại tài sản như đã cam kết khi đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Thành viên Cty chỉ được góp vốn phần vốn góp cho Cty bằng các tài sản khác với loại tài sản đã cam kết nếu được sự tán thành của đa số thành viên còn lại trong Cty. Trong thời hạn này, thành viên có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp như đã cam kết góp... Trường hợp có thành viên chưa góp hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam kết, Cty phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ, tỷ lệ phần vốn góp của các thành viên bằng số vốn đã góp trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày cuối cùng phải góp vốn đủ phần vốn góp theo quy định trên. Các thành viên chưa góp vốn hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam kết phải chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài chính của Cty phát sinh trong thời gian trước ngày Cty đăng ký thay đổi vốn điều lệ và phần vốn góp của thành viên. Như vậy, theo các quy định này, các thành viên cam kết góp vốn vào doanh nghiệp nhưng không góp sẽ phải chịu trách nhiệm tương ứng đối với phần vốn mình đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Tuy nhiên, trách nhiệm của cổ đông trong Cty cổ phần thì lại khác.

Theo Luật Doanh nghiệp 2014 thì cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Nội dung này được quy định cụ thể tại Khoản 1 và 4 Điều 112 của Luật Doanh nghiệp. Theo đó, các cổ đông phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Cổ đông chưa thanh toán hoặc chưa thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua phải chịu trách nhiệm tương ứng với tổng giá trị mệnh giá cổ phần đã đăng ký mua đối với các nghĩa vụ tài chính của Cty phát sinh trong thời hạn 90 ngày này. Như vậy, trách nhiệm của cổ đông Cty cổ phần sẽ nhẹ hơn đối với Cty TNHH. Cổ đông trong Cty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm trong thời gian góp vốn của Cty, ngoài thời gian góp vốn thì không phải chịu trách nhiệm. Với những viện dẫn và phân tích trên đây, có thể khẳng định rằng, ông Tâm có thể kiện các thành viên Cty TNHH ra tòa án để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Cty ông nếu ông Tâm có cơ sở chứng minh các thành viên đó chưa góp đủ vốn như đã cam kết.

Chuyên mục này có sự hợp tác về chuyên môn của Chi nhánh Cty Luật TNHH Phạm và Liên Danh tại Đà Nẵng. Đường dây nóng hỗ trợ tư vấn: 0236.3572456; 0905102425.