Vì sao thành La Qua không còn dấu tích?
Theo sử sách, năm 1832, vua Minh Mạng quyết định dời Dinh trấn Thanh Chiêm đến làng La Qua, tổng Hạ Nông, H. Diên Phước, phủ Điện Bàn (nay thuộc P. Vĩnh Điện, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam), đổi tên là Thành tỉnh Quảng Nam, song dân chúng gần xa đều gọi thành La Qua. Lúc ban đầu thành đắp bằng đất đến năm 1836, vua Minh Mạng cho xây bằng gạch.
Thành xưa còn một chút này... |
Thành được thiết bằng kiểu Vanbau theo kiến trúc Pháp, xung quanh thành được xây tường cao 1,2 trượng (4,8 mét), dày 0,8 mét, phần phía bên trong còn có bờ đất kiểu taluy, thấp hơn mặt tường chừng 1,5 mét, vừa cho người lính đứng bên trong đủ tầm quan sát ở bên ngoài, 4 góc nhô ra thành 4 pháo đài, phía bên ngoài đào các hồ rộng 4,5 trượng (10 mét), sâu 7 thước (2,8 mét) trên khu đất có hình móng rùa, có 4 cổng thành theo 4 hướng đông, tây, nam, bắc, đồng thời có cầu bắc qua hồ để ra bên ngoài. Mỗi cổng rộng 3,5 mét, làm bằng gỗ lim. Cổng đông môn (cửa tả) và tây môn (cửa hữu) được dùng cho lối lưu thông bình thường. Cổng nam môn (cửa tiền) chỉ được mở đón rước khi vua vi hành nên có câu: “Nam vô tiền, Ngãi vô hậu” (thành tỉnh Quảng Nam không có cổng trước, tỉnh Quảng Ngãi không có cổng sau). Cổng bắc môn (cửa hậu) chỉ sử dụng khi đưa tù nhân hành án. Các quan lại cho đây là “cửa tử” nên kiêng cử, không dám đi cửa này.
Từ cổng nam môn đi vào có một ụ đất hình thang, cao 2,5 mét, mỗi cạnh trên là 4 mét, dưới 5,5 mét, chia thành 3 cấp bước lên, chính giữa có một kỳ đài được chia nhiều bậc để dễ dàng bước lên treo cờ. Cờ màu vàng, có hình con rồng nên được gọi là cờ Long Tinh triều Nguyễn. Sau đó ít lâu, cờ được thay đổi, nền cũng màu vàng nhưng phía trên góc trái có 3 sọc xanh, trắng và đỏ, được gọi là cờ Bảo hộ. Tiếp đến là sân Triều Yết, có 18 bia ở giữa, mỗi bia cao 0,8 mét, được khắc hàm của từng cấp, từ nhất phẩm trở xuống, mỗi cấp có chánh nhất, tùng nhất, được chia làm hai bên, quan văn đứng bên tả, quan võ đứng bên hữu. Đi qua sân Triều Yết là tòa nhà hành cung, chính giữa là chiếc ngai sơn son thếp vàng để vua ngự mỗi khi vi hành hoặc vào dịp lễ Vạn thọ, tết cổ truyền, ngày Gia Long phục quốc mồng 2 tháng 5 âm lịch, hai bên là những sạp gỗ được chạm trổ hoa văn hình hổ, rồng, biểu tượng cho uy lực.
Những ngày đại lễ, các quan lại đều tập trung về đây dự lễ. Các quan phải mặc áo thụng xanh, quan văn thì đội mũ cánh chuồn còn quan võ thì tay cầm một đoạn gỗ màu trắng (tức đoạn hốt), tượng trưng cho sức mạnh. Các quan lại đều xếp hàng theo phẩm trật triều đình, mặt nhìn về hướng bắc. Cách hành cung chừng 200 mét về phía đông là Đốc bộ đường, dinh thự quan Tổng đốc, phía tây là dinh thự quan Bố chánh sứ. Song song với dinh thự quan Tổng đốc chếch về phía bắc là dinh thự quan Lãnh binh và trại lính, còn bên cạnh dinh thự quan Bố chánh sứ là dinh quan Án sát và các phòng như ty phiên, ty niết, nhà lao, trại lính cai ngục, gia cư các quan chức, đồn trú, trạm lính canh, lính tuần tiễu… Các phòng ty phiên, ty niết đến năm 1940 được đổi thành văn phòng. Phía bên ngoài tường thành là đường đất bao quanh, có 4 ngôi miếu cổ.
Năm 1912, chính quyền bảo hộ thực dân cho phép dân làng lấy địa điểm ngôi miếu cổng hậu để lập đình làng Kim Thành còn ngôi miếu được dời ra phía ngoài chừng 200 mét. Sau khi dựng đình, Trần Cao Vân có xướng câu: “Liên hiệp tứ không thành đại xã/Chỉnh tu cựu miếu hoán tân đình” được khắc trên đá phía trước đình. Đến năm 1942, Pháp cho lấp bớt hồ bao bọc xung quanh để trồng sen nên hồ không được rộng và sâu như lúc ban đầu…
Để chuẩn bị đối phó với âm mưu tái chiếm Quảng Nam của thực dân Pháp, đồng thời thực hiện mệnh lệnh tiêu thổ kháng chiến của chính quyền cách mạng, không để cho giặc chiếm lại thành tỉnh Quảng Nam làm cơ quan cai trị nên cuối năm 1946, chính quyền đã huy động hàng ngàn dân công và dụng cụ từ các huyện trong tỉnh tập trung về đây để đập phá cả tháng trời mới san bằng được thành tỉnh. Cũng ngay tại địa điểm khu đất có dinh thự quan Lãnh binh và các trại lính, ngày 12-5-1993, UBND Điện Bàn cho khởi công để xây dựng trụ sở Chi cục thuế và lúc đào móng, công nhân xây dựng phát hiện, khai quật được 8 khẩu súng thần công, 32 quả đạn có kích cỡ khác nhau của súng. Hiện tại các súng thần công được trưng bày tại Bảo tàng thị xã Điện Bàn.
Có người nhầm tưởng thành tỉnh Quảng Nam và Tỉnh lỵ Quảng Nam là một, điều này không đúng, bởi thành tỉnh Quảng Nam, còn gọi là nơi bộ máy tay sai của quân Nam triều ở xứ Quảng Nam chiếm đóng. Tỉnh lỵ Quảng Nam được Pháp đặt tại Hội An, nơi ấy có Tòa Công sứ Pháp, có cả hệ thống cơ quan hành chính chuyên môn dưới sự điều hành trực tiếp của Pháp như Lục bộ, đạc điền, bưu điện, cảnh sát… các đồn bốt lính khố xanh và cả bộ máy đô hộ của thực dân.
Ngày nay, các dấu tích của thành tỉnh Quảng Nam hầu như không còn gì, chỉ có 3 tấm văn bia với nhiều vết đạn của bao thời cuộc chiến tranh được đặt ở phía bên trái trước Nhà Bảo tàng thị xã Điện Bàn. Bây giờ khu đất có diện tích 43.200m2, nơi toàn bộ khuôn viên của thành tỉnh Quảng Nam ngày xưa được cơ quan có thẩm quyền xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
THÁI MỸ