Võ Hồng - Thời gian mây bay
Nhà văn Võ Hồng sinh ngày 5-5-1921 tại làng Ngân Sơn, An Thạch, Tuy An, Phú Yên; mất ngày 31-3-2013. Ông là một tên tuổi lớn ở Nha Trang, một nhà giáo rất được mọi người yêu quý. Cuộc sống của ông ở căn nhà số 53 Hồng Bàng, Nha Trang rất đơn độc vì con cái đều ở nước ngoài. Sau khi ông qua đời, di ảnh của ông đã được con cái mang theo để thờ tự. Ký ức về cây ô ma do ông trồng trước nhà và câu chuyện ông gắn chiếc lon sữa bò trên cây, để khi ai tới tìm ông sẽ kéo dây cho tiếng lon va leng keng, ông sẽ từ bên trên căn phòng nhỏ đi xuống đón tiếp, nên có câu chuyện: "Kéo dây gọi Võ Hồng."
Vào năm 1992, lần đầu tiên tôi tới nhà ông và cũng là lần đầu tiên gặp ông để thực hiện bài phỏng vấn do Báo Tuổi Trẻ đặt viết. Từ đó, khi rảnh tôi thường ghé đến trò chuyện cùng ông. Khi tôi gặp thì nhà văn đã qua tuổi 70, mắt ông kém nên vẫn thường đeo một chiếc kính khá dày và một chiếc kính phụ để đọc sách. Đặc biệt, bản thảo của ông vẫn là những trang viết tay. Khi đó, nhà thơ Phạm Chu Sa lo in cho ông một tập truyện, tôi có nhiệm vụ đem sách đã in xong đến cho ông. Khi Võ Hồng mất, nhà thơ Phạm Chu Sa đã hợp tác với NXB Trẻ cùng Công ty Văn hóa Hương Trang in tập sách với tựa "Văn chương và nhân cách Võ Hồng". Anh mang sách ra Nha Trang đặt trên bàn thờ nhân 100 ngày mất của ông.
Nhà văn Võ Hồng rất cẩn trọng trong từng lá thư, và thật trân quý khi ông tặng cho tôi những cuốn sách có chữ ký của ông. Thỉnh thoảng ông viết cho tôi một lá thư ngắn, có khi trên giấy pơ luya, có khi là bằng giấy rất đẹp trong cuốn sổ tay nào đó xé ra. Những bức thư ấy đã trở thành tư liệu quý.
Trong cuộc đời mình, nhà văn Võ Hồng đã cho ra đời 8 tiểu thuyết và truyện dài, trên 70 truyện ngắn, nhiều tập tùy bút, bút ký, truyện viết cho thiếu nhi; hơn 40 bài viết, bài khảo cứu, phê bình văn học. Đến trước khi mất, ông Võ Hồng đã in 30 cuốn sách thuộc nhiều thể loại. Tác phẩm Tiếng chuông chiêu mộ (in 2005) được xem như cuốn sách cuối cùng của ông.
Đặc biệt, ông có hai tập thơ: Hồn nhiên tuổi ngọc (1983) và Thời gian mây bay (1996). Với độc giả, nhiều người chưa đọc thơ ông, nhưng thơ Võ Hồng như tính cách của ông - nhẹ nhàng và sâu lắng.
Năm 1996, vào một ngày tháng chạp, như thường lệ tôi đến số 53 Hồng Bàng, Nha Trang- kéo dây gọi Võ Hồng. Và ông bước xuống cầu thang bên hông nhà (Cầu thang này đưa thẳng lên sân thượng và đối diện sân thượng có hai phòng, một phòng ông ở và một phòng dành riêng cho sách). Tôi và ông thường ngồi ở sân thượng, có chiếc ghế dành cho ông và một chiếc ghế dành cho khách. Từ sân thượng có thể nhìn qua sân nhà bên cạnh, căn nhà đó có một cây mận đến mùa rất sai trái. Ông đề tặng tôi tập thơ "Thời gian mây bay", kèm một bài giới thiệu tập thơ photocoppy đăng trên báo Người Lao Động của Mặc Lâm- Cát Tường. Lá thư ông viết: "Mượn đóa cúc quê mùa nói dùm tôi lời cầu chúc Anh Chị và mấy cháu sang Đinh Sửu được An Khang Hạnh Phúc. Gởi Anh chị cuốn Thời Gian Mây Bay này gọi. Gọi là ghi dấu thời gian chứ không dám Ban Môn Vũ Phủ…." (Cụm từ "ban môn vũ phủ" thực ra là cách viết sai hoặc nghe nhầm/ hiểu nhầm của một điển tích hoặc thành ngữ gốc Hán. Đúng ra là Ban môn lộng phủ, dịch là tự khiêm tốn khi phát biểu "Bài viết nhỏ này của tôi chỉ là múa rìu qua mắt thợ, xin chư vị chỉ giáo thêm.")
"Thời gian mây bay" có 48 bài thơ. Như ông nói, một hôm ông nảy ý nghĩ tập hợp lại những bài thơ ông làm thuở 18, đôi mươi và làm thơ suốt 50 năm… Trong tập thơ này, những bài đầu nặng niệm vận của thơ mới 1940 (cách ông nói). Bài Cánh hoa đầu tiên ông làm năm 1943, khi 23 tuổi: Năm năm về sau, mười năm sau / Khi đôi mái tóc sắp phai màu / Có bao giờ nhớ, em thầm nhắc: "Anh ấy bây giờ biết ở đâu?". Năm 1969, ông viết Vết thương khỏi sự: Bước lên phi cơ ta bỏ em lại phía sau / Vắng bóng em trên phi cảng lòng ta không vui / Nhớ tiếng nói cười, nhớ chiếc răng khểnh nhỏ / Nhớ đôi vai thon, nhớ bước chân đi khẽ.
Ông viết về sự cô đơn trong bài "Quạnh hiu": Năm giờ sáng mở mắt/Nhìn quanh: chỉ ghế bàn/ Thèm thấy một khuôn mặt/ Thèm nghe tiếng dịu dàng/Mười giờ đêm thâm u/Bóng tối như cõi chết/Tình yêu tìm nơi đâu/Hạnh phúc, chào vĩnh biệt/Vậy đó, ngày bắt đầu/Vậy đó, ngày kết thúc.
Nơi ông ở có một sân thượng để đón nắng sớm mưa chiều. Nơi ấy có chiếc ghế cho ông ngồi đọc sách hay ngắm thế gian. Nay ông không còn ngồi đó, và ông đã viết: Sau khi tôi chết/ Xin giữ y nguyên dùm mọi dấu vết/ Của những ngày u buồn trĩu nặng hồn tôi / Đây: cây bút màu đen sớm tối không rời/ Đây: cuốn vở cất đầy những mảnh lòng hiu hắt/ Kia: chồng sách không bao giờ ngăn nắp/ Này: góc vườn, hoa rụng trải lối đi/ Trên khung rào thưa, lá khẽ thầm thì. Ông nhắn nhủ: Nơi sân thượng xin để nguyên chiếc ghế / Kê sát lan can, hướng xuống mặt đường. (Di ngôn).
Những bài thơ của Võ Hồng đã góp phần làm đẹp cho vẻ đẹp của chốn văn chương, dẫu ông đã rời xa chúng ta. Giờ đây, chẳng thể: "Kéo dây gọi Võ Hồng".
Khuê Việt Trường








