31 năm tù cho đôi “cò” lừa chung cư

Thứ năm, 28/08/2014 09:35

(Cadn.com.vn) - Nhận thấy nhu cầu xin nhà chung cư thu nhập thấp (NCCTNT) của người dân trên địa bàn TP Đà Nẵng đang “nóng” nên Nguyễn Thanh Quang và Nguyễn Thanh Châu đã móc nối với một số đối tượng khác để thực hiện hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của nhiều người... Ngày 26 và 27-8, TAND TP Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử đối với hai bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Bị cáo Châu (phải) và Quang.

Tháng 1, 2-2011, Nguyễn Thanh Quang (1976, trú P. Hòa Khánh Nam, Q. Liên Chiểu, Đà Nẵng) và Nguyễn Thanh Châu (1967, trú P. An Hải Bắc, Q. Sơn Trà, Đà Nẵng) trao đổi về việc đi tìm người có nhu cầu xin mua NCCTNT. Quang hướng dẫn Châu về thủ tục cần thiết đồng thời nói rõ giá 55-60 triệu đồng/căn hộ, thời hạn từ khi nhận hồ sơ đến khi nhận QĐ là 90 ngày. Quang bảo Châu đi tìm người nào cần thì Châu nhận hồ sơ và tiền đặt cọc rồi giao lại cho Quang để hưởng “hoa hồng”. Tiền đặt cọc mỗi bộ hồ sơ là 10 triệu đồng, Quang sẽ trích lại cho Châu 1 triệu đồng/hồ sơ.

Tháng 9-2011, Quang đến gặp ông Huỳnh Minh Thắng, phụ trách kinh doanh của Cty Đức Mạnh và được giao 60 bộ hồ sơ mẫu đăng ký mua NCC của Liên doanh Cty 579 và Cty Đức Mạnh (có đóng dấu treo Cty 579). Trong khi tìm người đăng ký mua NCCTNT, Châu đã tự nâng giá tiền cọc lên 25 triệu đồng/hồ sơ. Châu thông qua một số người và trực tiếp nhận hồ sơ, tiền đặt cọc.

Tháng 2-2011, Châu gặp một người tên Nga và “nổ” có quen biết với người làm ở Văn phòng UBND TP Đà Nẵng nên có thể xin được NCC với số tiền chi phí là 55 triệu đồng, đặt cọc trước 25 triệu đồng. Châu bảo chị Nga làm hồ sơ xin chung cư và đặt vấn đề với chị Nga đi tìm kiếm những người xin chung cư khác về đưa cho Châu, Châu sẽ trích lại “hoa hồng” 2,5 triệu đồng/hồ sơ. Riêng chị Nga, Châu chỉ lấy số tiền chi phí là 35 triệu đồng, đặt cọc trước 15 triệu đồng, sau 90 ngày sẽ có nhà. Do tin lời Châu, Nga đã làm 1 bộ hồ sơ cho mình và nhận hồ sơ và tiền của một số  người xin chung cư đem giao cho Châu. Châu nhận hồ sơ, tiền và ký “Hợp đồng nhận cọc” cho chị Nga.

Từ tháng 3-2011 đến cuối năm 2011, Châu nhận của chị Nga 32 bộ hồ sơ và số tiền đặt cọc là 815 triệu đồng (trong đó có hồ sơ và 15 triệu đồng của chị Nga). Châu đứng tên ký “Hợp đồng nhận cọc” đối với từng người rồi đưa lại “hợp đồng nhận cọc” cho Nga về giao lại cho những người trên. Châu trích lại cho chị Nga 70 triệu đồng “hoa hồng” của 32 bộ hồ sơ. Còn lại Châu nhận 745 triệu đồng. Đến cuối năm 2011, các hộ rút hồ sơ và đòi tiền đặt cọc nên Châu trả lại Nga 14 bộ hồ sơ và 350 triệu đồng. Đến thời điểm này, Châu vẫn chưa trả lại cho chị Nga 18 bộ hồ sơ và 395 triệu đồng.

Vợ bị cáo Châu xin lỗi các bị hại.

Cũng bằng những chiêu “múa mép” tương tự, Châu đã nhận 10 bộ hồ sơ và 165 triệu đồng thông qua anh Hà Thanh Hải; nhận 21 hồ sơ và 504 triệu đồng thông qua anh Nguyễn Thanh Tùng. Ngoài ra Châu trực tiếp lừa đảo chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Huyền 65 triệu đồng và anh Nguyễn Văn Mẫn 25 triệu đồng.

Tháng 9-2011, nhận thấy có một số căn hộ chung cư số 2-Nguyễn Tri Phương (Đà Nẵng) chưa có người đến ở nên Nguyễn Thanh Quang thông qua mối quan hệ quen biết với anh Nguyễn Ngọc Huyên và anh Nguyễn Văn Thanh, Quang đã ký hợp đồng thuê các căn hộ số: 107, 202, 212, 519, 522, 620, 759 và thông qua anh Thanh đã ký hợp đồng thuê căn hộ số 209. Mỗi căn hộ thuê được, Quang trả cho Huyên, Thanh 5 triệu đồng.

Để tạo lòng tin cho những người có nhu cầu mua NCCTNT Quang tự nhận mình có quen biết với Lãnh đạo thành phố hoặc đang làm việc tại Văn phòng UBND TP Đà Nẵng có khả năng xin mua chung cư dành cho người thu nhập thấp qua đó thực hiện giao dịch mua bán với những người có nhu cầu, khi họ giao tiền mua hoặc tiền cọc thì giao chìa khóa cho những người đó dọn đến ở để làm tin nhằm chiếm đoạt tài sản của nhiều người.

Biết được anh Nguyễn Minh Hoàng có nhu cầu mua căn hộ số 519 nên ngõ ý nhờ và  được Quang cho biết căn hộ này bán với giá 200 triệu đồng và yêu cầu đăt cọc 100 triệu đồng để làm thủ tục chuyển nhượng. Căn hộ 519 của vợ chồng ông Nguyễn Đăng Hải và bà Nguyễn Thị Phong. Ngày 10-1-2012, Quang gặp anh Nguyễn Đăng Hải (chủ căn hộ 519) làm hợp đồng thuê căn hộ chung cư số C519 thuộc khu chung cư Nguyễn Tri Phương, trong thời hạn 2 năm kể từ ngày 10-1-2012 đến 10-1-2013 với giá thuê 4,5 triệu đồng/tháng, Quang đã trả trước 45 triệu đồng.

Sau khi thuê được căn hộ, Quang đưa khóa để vợ chồng anh Hoàng dọn đến ở, nhận 100 triệu đồng tiền cọc của anh Hoàng. Khoảng tháng 2-2012, Quang nói là cần lấy số tiền còn lại để làm giấy tờ nhà nên anh Hoàng đưa tiếp cho Quang số tiền 100 triệu đồng. Đến tháng 9-2013, anh Hải đến đòi lại nhà thì anh Hoàng mới biết mình bị ăn phải “quả lừa”. Cũng với chiêu trò tương tự Quang đã thuê chung cư của những người khác rồi “lòe” bán lại cho những người có nhu cầu. Trong đó, chị Tạ Thị Xuân Ý với số tiền 600 triệu đồng để mua 3 căn hộ số 522, 620 và 519. Cũng vì tin tưởng Quang nên sau khi đưa tiền cho Quang, chị Ý giao lại chìa khóa 3 căn hộ này để Quang sửa chữa lại không ngờ Quang tiếp tục dùng những căn hộ này để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác.

Ngoài ra, Quang còn lừa đảo của chị Lê Thị Diễm Thúy số tiền 230 triệu đồng; lừa ông Nguyễn Thanh Vũ số tiền 230 triệu đồng tiền căn hộ và 1,2 tỷ đồng chuyển nhượng 2 lô đất tại khu vực Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng; anh Vũ Thanh Luyến 200 triệu đồng; chị Vũ Thị Bích Ngọc 130 triệu đồng; chị Đậu Thị Thiệp 250 triệu đồng; chị Phạm Thị Ngọc Ánh căn hộ số 620 với giá 550 triệu đồng; lừa chị Trần Thị Ngọc Linh số tiền 80 triệu đồng; ông Hà Đức Tình 80 triệu đồng và chị Trần Thị Hải 70 triệu đồng… Tổng cộng Nguyễn Thanh Quang đã lừa đảo chiếm đoạt của 14 bị hại nêu trên là 4,770 tỷ đồng.

Tại tòa, bị cáo Châu khai nhận vì quá tin tưởng Quang là cán bộ UBND TP nên mới đi giới thiệu lại cho những người có nhu cầu mua căn hộ chung cư. Chính Châu cũng không ngờ Quang cũng chỉ là quân “tiểu tốt” như mình. Trong số tiền kiếm được từ việc môi giới bán nhà, Châu cho rằng có một phần dùng để làm từ thiện nhưng không tiện nói ra như bị cáo Quang thể hiện trong cáo trạng. Theo bị cáo, cáo trạng của VKS cho rằng số hồ sơ mà CQĐT thu giữ tại nhà của bị cáo do bị cáo Quang trả lại là không đúng mà bởi vì sau khi hứa hẹn đúng thời gian đó sẽ giao hồ sơ, nhà cho các đối tượng mua nhưng Quang không làm được nên bị cáo Quang muốn kéo dài thời gian bằng cách đưa thêm hồ sơ (lần 2) yêu cầu họ phải thực hiện có xác nhận của chính quyền địa phương và có công chứng.

Bị cáo Quang cho rằng khi thỏa thuận mỗi bộ hồ sơ nhận cọc là 10 triệu đồng nhưng do bị cáo Châu tự ý nâng lên 20 triệu đồng/1 bộ bị cáo không biết. Trong số tiền chiếm đoạt bị cáo dùng số tiền 1 tỷ đồng để làm từ thiện. Tại tòa bị cáo Quang vẫn tự nhận mình có mối quan hệ rộng, là trợ lý của ông N.B.T nên các bị hại tuyệt đối tin tưởng. Không chỉ dừng lại ở đó, mỗi lần các bị hại có nhu cầu gặp gỡ với “lãnh đạo” Quang đều “rất chịu khó” để họ được thỏa mãn.

Các đối tượng có nhu cầu mua hộ chung cư chẳng mảy may những người có “quan hệ rộng cấp thành phố” này đang lừa đảo mình, chỉ đến khi chủ hộ đến thông báo đã hết thời  hạn hợp đồng thuê nhà thì mọi chuyện mới được phơi bày. Để “qua mặt” những bị hại, Quang cho hay đây là những căn hộ được “lại quả” nên không dùng mà bán, đợi một thời gian, bị cáo sẽ tìm cách thay đổi tên trong hồ sơ bằng tên chính chủ là người mua hiện tại.

Hành vi của hai bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, mang tính chuyên nghiệp nên HĐXX xét thấy cần tuyên bị các bị cáo một mức án thật nghiêm minh để làm gương và ngăn ngừa chung cho xã hội. Bị cáo Quang đóng vai trò chủ chốt nên xử phạt bị cáo 18 năm tù; bị cáo Châu 13 năm tù.

Bài, ảnh: Phương Trang