77 năm nhớ lời kêu gọi chống nạn thất học của Bác Hồ kính yêu!
Và chỉ 5 ngày sau đó (8 - 9-1945), Chính phủ đã ban hành liền ba sắc lệnh số 17, 19 và 20. Theo đó, Nha Bình dân học vụ (BDHV) ra đời nằm trong Bộ Quốc gia Giáo dục…Tiếp đến, ngày 3-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn dân “Chống nạn thất học”. Trong Lời kêu gọi, Người đã chỉ rõ tình trạng nhân dân gần như hoàn toàn bị mù chữ và đây cũng là một trở ngại rất lớn đối với sự tiến bộ, giàu mạnh của đất nước. Vì thế, một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc là nâng cao dân trí. Người khuyên dân ta "trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ" và Người kêu gọi hãy góp sức với BDHV.
Lời kêu gọi của vị lãnh tụ kính yêu thể hiện rất rõ ý Đảng lòng dân, tạo nên một làn sóng có sức mạnh vô biên, thành một cao trào chưa từng thấy trong lịch sử nước nhà.
Lời kêu gọi “ Chống nạn thất học” của Bác chỉ vỏn vẹn 382 chữ nhưng có lẽ chưa có một lời kêu gọi nào được nhân dân từ già đến trẻ , từ giàu đến nghèo, không kể giai cấp, giáo hay lương...lại nhiệt tình hồ hởi, phấn khởi quyết tâm thực hiện đến như vậy ! Lời kêu gọi lập tức trở thành một sự kiện lớn trong đời sống văn hóa của đất nước lúc bấy giờ. Bác chỉ rõ: “Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ ”.
Thấm nhuần lời dạy của vị Cha già kính yêu, lại có Nha BDHV do chính phủ vừa lập ra để trông nom việc học của dân chúng, một cao trào hưởng ứng và học tập được triển khai với một quy mô rộng lớn. Các khẩu hiệu: “Đi học BDHV là yêu nước! Dạy học BDHV là yêu nước! Giúp đỡ BDHV là yêu nước !”, hay “Chống mù chữ cũng như chống ngoại xâm”, “Giặc dốt diệt, Việt Nam cường”... Khẩu hiệu được viết dán ở từng nhà, mặt tường, thân cây. Khẩu hiệu được hô vang trong các buổi phát thanh, trong các đội ngũ diễu hành, các buổi rước đuốc bình dân với các hình ảnh quyển vở, lọ mực, cây bút. Ai không biết chữ đều cố gắng đi học... Lớp học mở khắp nơi, tại các trường, tại đình, chùa, tại nhà dân…, có cả lớp mở ở trại giam cho phạm nhân. Lớp đông người, lớp một thầy một trò, lớp không có giáo viên, học viên đến tập đọc trên các bảng đã viết sẵn treo trên khóm tre, bụi chuối, bờ ao để bà con học mỗi khi ra đồng, ra chợ. Có nơi quy định ai đọc được hàng chữ treo trước chợ mới được vào chợ mua, bán…
Ban đêm ở thành thị thắp đèn điện, ở nông thôn thắp đèn dầu hỏa, có nơi dùng dầu lạc, đốt trái mù u, hạt bưởi, nhựa trám để lấy ánh sáng mà học. Giấy viết không có thì dùng than, dùng gạch viết trên nền xi măng, dùng que viết lên đất. Để động viên mọi người đến lớp, các cụ già đến từng nhà, từng ngõ nhắc nhở bà con đi học và cũng đi học để lôi cuốn con cháu. Ai gặp cảnh nhà khó khăn các cụ đến tận nhà giúp đỡ: bế con, thái rau cho lợn ăn ... Nếu thiếu thầy giáo thì các cụ chỉ rõ trong lời kêu gọi của Bác: “Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ chưa biết thì con bảo, người ăn người làm không biết thì chủ nhà bảo ...”.
Có người cày xong thửa ruộng, chân còn lấm bùn đất vội vàng vào lớp cầm viên phấn để giảng bài. Người tàn tật biết chữ cũng tham gia dạy học. Có những cụ già xung phong làm thầy giáo. Thấy rõ công lao của những người giáo viên BDHV trong sự nghiệp tiêu trừ giặc dốt, ngày 4-5-1946, Bác lại thân thiết gửi thư động viên cán bộ giáo viên BDHV, tặng anh chị em danh hiệu cao quý là “ Chiến sĩ diệt dốt”. Bác gửi gắm lòng tin vào những người “anh hùng vô danh” ấy và ghi nhận “Một phần tương lai của dân tộc nước nhà nằm trong sự cố gắng của anh chị em”. Người học, người dạy đều được Bác khuyến khích động viên nên mọi người cố gắng rút ngắn thời gian biết đọc, biết viết .
Có nhớ lại bối cảnh lịch sử đất nước lúc bấy giờ, ta mới thấy hết ý nghĩa đặc biệt của công tác xóa mù chữ, diệt dốt để nâng cao dần từng bước nền dân trí nước nhà. Nhà nước Dân chủ cộng hòa còn non trẻ vừa được thiết lập, thù trong giặc ngoài rồi bọn phản động đủ “màu sắc” quấy phá điên cuồng thế mà toàn dân ta, bất chấp mọi khó khăn, thiếu thốn, đoàn kết một lòng nghe theo lời Bác Hồ kính yêu, tạo được thành tích vang dội, làm tiền đề để tiến lên bổ túc văn hóa, một bước quan trọng trong lĩnh vực đào tạo để “tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà” như Bác Hồ hằng mong muốn.
Chỉ một năm sau ngày phát động phong trào BDHV, trên cả nước đã có 75.000 lớp học. Từ 2,5 triệu người thoát nạn mù chữ vào năm 1946, tới năm 1948, con số này tăng lên 6 triệu người và đến năm 1952 là 10 triệu người…Thành tích kỳ diệu của công cuộc chống giặc dốt đã góp phần bảo vệ thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân, bảo vệ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Tuy Bác đã về với “thế giới người hiền” nhưng lời kêu gọi “ Chống nạn thất học” của Bác để lại vẫn rất sống động, còn vang vọng mãi đối với những ai có trách nhiệm cao cả trong sự nghiệp “ Xóa mù chữ - diệt dốt” của dân tộc. Ngày nay, công cuộc xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập THCS ở Việt Nam theo chuẩn quốc gia đã hoàn thành. Nhưng chúng ta vẫn phải tiếp tục thực hiện mong muốn da diết của Bác là làm thế nào cho toàn quốc “đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. “Ai cũng được học hành”- đó là hành trình của sự duy trì thành quả giáo dục làm cho dân tộc ta trở thành một dân tộc thông thái như Người hằng mong ước.
Lê Đoàn