Chuyện chưa kể về bến đò Ông Đốc
(Cadn.com.vn) - Nhiều người qua lại bến đò ngang sông Thu Bồn tại thôn Văn Ly của 2 xã Điện Hồng và Điện Quang, H. Điện Bàn (Quảng Nam), cứ nhầm tưởng ông Đốc là người đưa đò nên người ta mới gọi tên là bến đò Ông Đốc. Thực ra, “Ông Đốc” được đặt tên cho bến đò này chính là Đốc binh Bùi Xuân Bảng của Nghĩa hội Quảng Nam. Lịch sử ghi nhận tại Bãi Chài-Vân Ly đã xảy ra trận đánh của quân Nghĩa hội với giặc Pháp và bọn tay sai. Trong trận đánh này, nghĩa binh đã nhấn chìm 7 ca nô chở đầy giặc Pháp và bè lũ tay sai bán nước. Đốc binh Bùi Xuân Bảng trực tiếp chỉ huy trận đánh và đã anh dũng hy sinh. Để tưởng nhớ đến ông, nhân dân gọi bến đò nơi ông nằm xuống là bến đò Ông Đốc.
Vào tháng 5-1945, tại bến đò Ông Đốc có một sự kiện lịch sử quan trọng là Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng được bí mật tổ chức trên một chiếc thuyền neo giữa sông Thu Bồn. Hội nghị đã nghiêm khắc phê phán chủ trương sai lầm, nguy hiểm của nhóm “Tân lập hiến” (nhóm phụ họa cho chiêu bài “độc lập” giả hiệu của Nhật, hô hào quần chúng ủng hộ chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim), chủ trương kiên quyết lột mặt nạ của các đảng phái thân Nhật,... bảo đảm cho hàng ngũ của Đảng có sự nhất trí cao về đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, tập trung lực lượng hướng vào mục tiêu khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng 8 năm đó.
Cũng tại nơi đây, thực dân Pháp đã gây ra tội ác thấu trời là sát hại một lúc 380 người dân vô tội tại chợ Chương Dương vào lúc buổi chợ đang đông một ngày tháng 8-1948. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bến đò Ông Đốc là con đường huyết mạch để vận chuyển vũ khí, lương thực và đưa cán bộ, bộ đội sang sông...
Bến đò Ông Đốc nằm trên tuyến đường quan trọng nối hai bờ Nam-Bắc Thu Bồn nên tấp nập khách qua lại. Trải bao dâu bể thời gian và thăng trầm lịch sử, bến đò Ông Đốc đã gắn liền với “nghiệp chèo đò” của một gia đình 5 đời đưa khách sang sông. Người đi đò quá quen một phụ nữ gắn bó cả đời mình với dòng sông, bến nước và con đò nơi đây. Bà tên là Lê Thị Thương (1950, ở thôn Văn Ly, xã Điện Hồng, Điện Bàn) nhưng người dân địa phương và khách đi đò quen gọi là bà Hai. Gọi riết rồi quen, nhiều người còn không nhớ rõ tên thật của bà. Thời niên thiếu, bà Hai đã từng theo cha mẹ chèo đò đưa khách sang sông, tham gia chở cán bộ, bộ đội và vận tải lương thực dọc ngang trên sông nước Thu Bồn. Nay tuổi đã cao, nhưng ngày ngày bà Hai vẫn ra bến đò Ông Đốc, bởi “nghiệp chèo đò” lênh đênh sông nước đã vận vào bà, không thể dứt ra được.
![]() |
Bến đò Ông Đốc tại thôn Văn Ly, xã Điện Hồng, H. Điện Bàn. |
Bà Hai kể, ông cố bà tên là Lê Văn Lò (thường gọi ông Ba Xã Lò) đã gắn bó trọn đời mình với nghiệp chèo đò nơi bến Ông Đốc. Ông nội bà tên là Lê Văn Chờ (Tư Chờ) cũng theo nghề cha. Ông Tư Chờ có đến 15 người con, 11 con trai và 4 người con gái. Ông đã thành lập vạn ghe ở đầu gò thôn Văn Ly, xã Điện Quang để vừa đưa đò vừa vận chuyển lương thực, vũ khí lên các căn cứ vùng thượng nguồn Thu Bồn. Bọn Pháp đóng đồn tại đây biết được nên bắn giết nhằm xóa vạn ghe, buộc mọi người phải di tản. Đời ông bà nội của bà Hai có người bị bắn chết, người bị Pháp chặt đầu cắm tại bến đò Ông Đốc. Dù bị giặc trấn áp nhưng ông Tư Chờ vẫn quay trở lại lập bến đò và vạn ghe để tiếp tục phục vụ kháng chiến, phục vụ cách mạng. Đến đời cha bà Hai là ông Lê Văn Thương, người gắn bó cả đời với con đò, chuyến thuyền và nhiệm vụ cách mạng giao trong kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ. Ông Thương được Nhà nước tặng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì. Ông mất năm 2011.
Là con gái trong gia đình có 11 anh chị em nhưng mình bà Hai theo nghiệp chèo đò truyền thống của gia đình. 13 tuổi, bà đã có thể tự mình chèo đò ngược lên bến Thượng, xuôi xuống Bình Long chở lúa, gạo thuê. Đêm đến, khi thì làm nhiệm vụ cảnh giới, khi thì đưa du kích vượt sông, lúc lại làm tải thương cho quân ta trong nhiều trận đánh. Năm 1966, khi chèo đò lên Duy Xuyên thì bà bị địch bắt. Nhờ “khai gian” nhỏ tuổi mà bà được bảo lãnh ra ngoài. Rồi bà lấy chồng, sinh con. Giải phóng, bà tham gia hợp tác xã, cũng làm nghề đưa đò chở phân bón ruộng, chở lương thực... Năm bà 26 tuổi, chồng chết vì sốt xuất huyết, mình bà một nách nuôi 5 đứa con khôn lớn. Một đời nhẫn nại đưa đò nên bà Hai quen cách “ăn sóng nói gió”, nước da rám nắng với đôi bàn tay gân guốc. Theo kinh nghiệm lâu năm chèo đò, bà Hai biết chỗ nông sâu để chuyến đò không mắc cạn; nhìn con nước mùa lũ mà biết khi nào cho đò rời bến được an toàn... Bà Hai cùng người con trai (đang theo nghề chèo đò của mẹ) đã cứu nhiều người bị đuối nước trên sông, có trường hợp cứu được cụ bà trôi sông lúc 4 giờ sáng...
Những câu chuyện về bến đò Ông Đốc đời này truyền đời sau, như nghiệp chèo đò của nhà họ Lê, khiến người qua lại không vô tư như đi qua một dòng sông vô cảm, trái lại, như thấy mình lạc vào ngồn ngộn truyền thuyết Thu Bồn, vốn là một phần lịch sử đất và người xứ Quảng.
Thạch Hà