Kỳ họp thứ 7, Quốc hội Khóa XIV: Phải chấn chỉnh các khu du lịch tâm linh

Thứ năm, 06/06/2019 08:07

Tại phiên họp chiều 5-6, nhiều đại biểu Quốc hội chất vấn Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Ngọc Thiện về công tác phòng ngừa mê tín dị đoan; quản lý nguồn thu từ các khu di tích, danh lam thắng cảnh, du lịch tâm linh. Nội dung này cũng được các đại biểu chất vấn Bộ trưởng Bộ Xây dựng Phạm Hồng Hà.

Bộ trưởng Nguyễn Ngọc Thiện trả lời chất vấn.

Thu chi tiền công đức công khai, minh bạch?

Tại phiên chất vấn, nhiều đại biểu Quốc hội đặt câu hỏi liên quan đến vấn đề lễ hội tổ chức rầm rộ với các biểu hiện mê tín dị đoan, tính minh bạch trong thu chi tiền công đức... Trả lời chất vấn của đại biểu Nguyễn Mai Bộ về vấn đề thương mại hóa công trình tâm linh, gây bức xúc dư luận, Bộ trưởng Nguyễn Ngọc Thiện khẳng định, “việc thương mại hóa công trình tâm linh, lợi dụng công trình tâm linh để kinh doanh, thu lợi bất chính, thực hiện hành vi mê tín dị đoan là hành vi vi phạm pháp luật, cần phải lên án và xử lý theo quy định”.

Đề cập đến trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước, Bộ trưởng cho biết, quản lý về tôn giáo, chùa thuộc trách nhiệm của Bộ Nội vụ. Đối với khía cạnh quản lý văn hóa, Bộ trưởng khẳng định, chưa nhận được thông tin quan chức đóng góp để xây dựng chùa. Nếu đại biểu có thông tin chính xác về những công trình tâm linh được góp vốn từ nhiều cá nhân (quan chức) để xây dựng thì cung cấp cho các lãnh đạo Đảng, Nhà nước để xử lý theo quy định pháp luật và Quốc hội để tiến hành giám sát - Bộ trưởng Nguyễn Ngọc Thiện và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nói rõ.

Đại biểu Mai Sĩ Diến chất vấn: Sự phát triển các dự án tâm linh được đầu tư rất lớn, tầm cỡ kỷ lục quốc gia, khu vực và thế giới. Báo cáo của Bộ trưởng đã đánh giá việc quản lý thu chi tiền công đức công khai, minh bạch. “Bộ trưởng cho biết tính chính xác của nhận định trên? Tổng thu, chi tiền công đức mỗi năm là bao nhiêu? Sử dụng vào mục đích gì? Bộ trưởng có chủ trương thanh tra, kiểm soát nguồn thu chi cho hoạt động lễ hội, tín ngưỡng mang tính xã hội hóa hiện nay hay không?”, đại biểu đặt câu hỏi.

Ngoài ra, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định quy định mỗi di tích không quá 3 hòm công đức tại 3 ban thờ chính. Bộ khẳng định đã bố trí, sắp xếp hệ thống hòm công đức, nơi đặt lễ, tiền dầu nhang theo quy định. Tuy nhiên, có nhiều điểm tâm linh đặt hòm công đức dày đặc, việc cúng thuê, khấn thuê đang tạo nên tình trạng thương mại hóa đời sống tâm linh. Bộ trưởng cho biết trách nhiệm của mình?

Trả lời chất vấn của đại biểu, Bộ trưởng cho biết, hiện nay chưa có văn bản pháp quy nào quy định tiền công đức thu, chi như thế nào. Chỉ có văn bản của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng với Bộ Nội vụ hướng dẫn việc sử dụng tiền công đức. Thông tư liên tịch số 04/2014/TTLT-BVHTTDL-BNV về hướng dẫn việc thực hiện nếp sống văn minh tại các cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo đã quy định “Tiền, tài sản được dâng cúng, công đức, tài trợ cho các cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo phải được quản lý, sử dụng đúng mục đích, công khai, minh bạch”. Bộ chưa có văn bản quản lý nhà nước nào quy định về vấn đề này.

Theo Bộ trưởng, hiện nay, Chính phủ ban hành Nghị định 110 liên quan đến quản lý và tổ chức lễ hội, trong đó, giao cho Bộ Tài chính hướng dẫn vấn đề thu chi tiền công đức. Do Nghị định mới ban hành năm 2018, nên Bộ Tài chính đang triển khai xây dựng văn bản này.

Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng cho rằng, “không được đặt quá nhiều hòm công đức”, đồng thời khẳng định “tiếp thu ý kiến của đại biểu và sẽ nghiên cứu, cùng với các bộ, ngành để đặt hòm công đức như thế nào, bảo đảm được nếp sống văn minh, văn hóa”.

Nhập nhằng giữa công và tư

Trước đó, vào buổi sáng, Đại biểu Trương Trọng Nghĩa nêu chất vấn với Bộ trưởng Bộ Xây dựng Phạm Hồng Hà: Rất nhiều cử tri quan tâm và nhiều báo đã viết về tình trạng khu du lịch tâm linh, chùa chiền vài trăm héc-ta nhưng nhà đầu tư được cấp đến vài nghìn héc-ta, có những trường hợp được cấp chục nghìn héc-ta, có sự nhập nhằng giữa công và tư. Có ý kiến cho rằng nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư, nhưng Nhà nước bỏ ra chục ngàn héc-ta đất đai rừng biển là có sự đầu tư lớn tài sản công ở đây, và sau đó thuộc quyền kiểm soát của nhà đầu tư tư nhân.

Đại biểu đưa ra câu hỏi: “Thứ nhất, vấn đề quy hoạch những khu du lịch tâm linh với diện tích lớn vậy chúng ta có kiểm soát được không? Thứ hai, việc khai thác có công bằng hợp lý không và đúng pháp luật hay không?”.

Trả lời vấn đề trên, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Phạm Hồng Hà cho biết: Hiện nay, việc đầu tư xây dựng khu du lịch, trong đó có khu du lịch tâm linh được điều chỉnh ở các văn bản pháp luật về đất đai, tín ngưỡng tôn giáo, di sản văn hóa, xây dựng đầu tư, Luật Quy hoạch, pháp luật về bảo vệ môi trường và phát triển rừng. Trong đó có một số công cụ quản lý, kiểm soát là: Luật Du lịch có quy định phải lập quy hoạch khu du lịch tại địa phương. Luật Đất đai quy định UBND cấp tỉnh căn cứ vào chính sách tôn giáo của Nhà nước, quy hoạch kế hoạch sử dụng đất được phê duyệt để quyết định diện tích đất giao cho cơ sở tôn giáo. Luật Tín ngưỡng quy định: Việc cải tạo nâng cấp xây dựng mới cơ sở tôn giáo, công trình tín ngưỡng được quy định theo pháp luật về xây dựng.

Trong pháp luật về xây dựng có quy định về khu chức năng, trong đó có khu du lịch phải lập quy hoạch chung, quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết với các khu có diện tích từ 500 ha trở lên. Công trình tôn giáo thuộc loại công trình được cấp phép xây dựng. Trong hồ sơ cấp phép xây dựng phải có bản sao giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất theo quy định của đất đai, bản sao giấy tờ quy hoạch dự án, quyết định đầu tư của người quyết định đầu tư theo thẩm quyền, văn bản chấp thuận về sự cần thiết xây dựng và quy mô công trình của cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở địa phương.

Bộ trưởng Phạm Hồng Hà khẳng định: Nếu các địa phương thực hiện đúng, đủ các quy định trên thì sẽ kiểm soát được việc đầu tư xây dựng khu du lịch tâm linh, tránh được các hiện tượng như đại biểu  nêu. Bộ Xây dựng sẽ bổ sung quy định để đảm bảo sử dụng đất hợp lý trong quy hoạch các khu du lịch.

Tranh luận lại với trả lời của Bộ trưởng Phạm Hồng Hà, đại biểu Trương Trọng Nghĩa cho biết, cử tri và nhiều báo chí nêu có sự nhập nhằng giữa các dự án tâm linh và dự án du lịch. Có những bài báo rút tít "dân nghèo không có tiền thì không đi chùa được, vì rất nhiều khâu dịch vụ phải đóng tiền". Theo đại biểu, trong quản lý về phân bổ tài nguyên đất đai, Điều 30 Luật Đầu tư công quy định: đất đai, rừng phòng hộ 50 ha trở lên, rừng sản xuất 1.000 ha trở lên, việc di dân 20 nghìn người trở lên được siết rất chặt. Đại biểu băn khoăn, "vậy thì đầu tư tư nhân có kiểm soát chặt như vậy hay không, và việc phân bổ hàng chục nghìn héc-ta của các dự án này có hợp lý hay không, chưa kể những đầu tư khác như điện, đường mà Nhà nước đã đầu tư vào khu vực này".

Q. NHƯ - T.VÂN

Tính cạnh tranh của du lịch Việt Nam “chưa cao”

Đại biểu Nguyễn Quốc Hưng đặt vấn đề về nút thắt dẫn đến tình trạng tổng thể tính cạnh tranh của du lịch Việt Nam chưa cao, chỉ xếp thứ 67/136 nền kinh tế. Đồng thời, đại biểu cũng đề nghị Bộ trưởng cho biết những giải pháp đột phá nhằm sớm cải thiện được thứ hạng, đưa du lịch Việt Nam vào nhóm đầu các nước ASEAN, đạt được mục tiêu cao theo Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị đã đề ra.

Bộ trưởng Nguyễn Ngọc Thiện khẳng định, một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tính cạnh tranh của du lịch Việt Nam chưa đạt xứng tầm tiềm năng là do bên cạnh các thế mạnh, có một số chỉ số còn rất hạn chế. “Như là chỉ số về hạ tầng du lịch, thứ 113/136; trong đó Thái Lan thứ 16. Mức độ ưu tiên cho ngành du lịch chúng ta hạng 101, Thái Lan hạng 34. Vấn đề về mức độ mở cửa quốc tế chúng ta hạng 73, Thái Lan hạng 52, chỉ số cạnh tranh về thị thực chúng ta đứng thứ 116, thấp nhất trong các nước ASEAN, trong khi đó Thái Lan đứng thứ 21, Philippines thứ 24”.

Bộ trưởng Nguyễn Ngọc Thiện cho biết, Việt Nam hiện chỉ mở cửa cho phép thị thực đơn phương cho 24 nước và cấp thị thực điện tử cho 80 nước, trong khi Indonesia miễn thị thực cho 158 nước, Philippines miễn thị thực cho 157 nước... Đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam đạt thấp theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới.

Theo Bộ trưởng, để khắc phục tình trạng trên, cần giảm thiểu những hạn chế liên quan đến điểm yếu của du lịch Việt Nam như về cơ sở hạ tầng, mở cửa thị thực, tăng tính bền vững về môi trường.

---------------

TAXI CÔNG NGHỆ SẼ CẠNH TRANH CÔNG BẰNG VỚI TAXI TRUYỀN THỐNG

Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể trả lời chất vấn.

Trả lời chất vấn trong phiên họp ngày 5-6, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thể đã giải đáp nhiều vấn đề “nóng” được đại biểu Quốc hội quan tâm, trong đó có các nội dung liên quan đến taxi truyền thống và taxi công nghệ.

Theo đại biểu Trần Thị Hằng, việc chậm ban hành Nghị định 86/NĐ-CP quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô-tô đã ảnh hưởng đến công tác quản lý Nhà nước trong việc giải quyết những bất cập nêu trên. Đại biểu đề nghị Bộ trưởng cho biết nguyên nhân chậm ban hành dự thảo Nghị định 86 sửa đổi, đồng thời đặt câu hỏi khi nào Nghị định được ban hành?

Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cho biết, Bộ đã trình Chính phủ 7 lần và mỗi lần đều có những thay đổi do vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, đến nay, nội dung Nghị định đã nhận được sự đồng thuận của hầu hết các hiệp hội, tổ chức, cơ quan. Bày tỏ hy vọng Nghị định 86 sửa đổi sẽ sớm được ban hành, Bộ trưởng khẳng định, khi đó, taxi công nghệ và taxi truyền thống sẽ có cơ hội cạnh tranh như nhau vì taxi truyền thống cũng có thể lắp các thiết bị công nghệ để phục vụ hành khách.

Bộ trưởng cho biết: “Trong Nghị định 86 sửa đổi, chúng tôi đề xuất xe taxi công nghệ gắn mào để các cơ quan chức năng khi nhìn lướt qua biết được là xe taxi và xe taxi hợp đồng điện tử hoặc taxi công nghệ”.