Ký ức những ngày khởi nghĩa
LTS: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày 2-9-1945 đã tạo nên một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc ta, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc: Kỷ nguyên độc lập - tự do; kỷ nguyên của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội… Hướng tới kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng 8 thành công và Quốc khánh 2-9, Chuyên đề Công an TP Đà Nẵng trân trọng giới thiệu bài viết “Ký ức những ngày khởi nghĩa” của Nhà văn, Nhà báo Hồ Duy Lệ.
Kỳ 1: Sự ra đời của Ủy ban Bạo động giành chính quyền tỉnh Quảng Nam

Ủy ban khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám 1945 của tỉnh Quảng Nam gồm 17 đồng chí. Năm 2000, Tỉnh ủy mời họp để nghe kể kỷ niệm ngày khởi nghĩa, chỉ có 6 đồng chí về đến đất Tam Kỳ là Võ Chí Công, Trần Văn Quế, Huỳnh Đắc Hương, Nguyễn Văn Ưng, Phan Khắc, Lê Thanh Hải.
Ông Trần Văn Quế, năm 1940 tù Hội An, năm 1941 bị đày Buôn Ma Thuột. Ngày 20-3-1944, trên đường bị đưa ra an trí ở Phú Bài, mấy anh em bàn nhau nhảy tàu. Vừa tối, tàu chạy đến khu vực đèo Thủy Thạch - Đức Phổ - Quảng Ngãi, còn xa mới đến Dốc Sỏi - biên giới với Quảng Nam, thấy có cơ hội tốt, mấy anh em hè nhau nhảy tàu. Trước khi quyết định nhảy tàu, hai người bạn cùng quê Trần Văn Quế và Nguyễn Giám lấy tên mới - Quế là Sáng, Giám là Chế. Khi nhảy ra khỏi tàu liền chạy vào rừng nên bị lạc nhau. Sau 10 ngày, Sáng và Chế gặp lại gần Dốc Sỏi vào lúc mờ tối.
Về đến đất Tam Nghĩa, hai người vượt qua Đồng Lớn lần về đến Hòa Vân - Tịch Tây, vào nhà ông xã Khiết - là người do các ông Nguyễn Sắc Kim và Võ Toàn (tức đồng chí Võ Chí Công) cài ra làm Lý trưởng và trở thành một cơ sở - người từng liên lạc với ông Nguyễn Giám. Đang đêm, hai người tìm đến nhà chị Bốn Phiên, có tên là Lan người Đồng Cọ - bí danh là Hằng. Được cô Lan tận tình che giấu, hai ông đã xây dựng được nhiều cơ sở. Sau đó, lần theo giới thiệu của ông Nguyễn Sắc Kim và ông Võ Toàn từ trong nhà tù, hai ông đã gặp Bảy Phe - thợ mộc Kim Bồng, sau đó gặp Nguyễn Thúy vừa ở tù về.
Bảy Phe kể: Tôi ở tù trong Nha Trang về Hội An giữa năm 1942, được bổ sung vào Thị ủy Hội An. Tháng 4-1944, một Hội nghị được tổ chức tại chùa Kim Bồng - Hội An, quyết định thành lập Tỉnh ủy Lâm thời Quảng Nam gồm ba đồng chí Trần Văn Quế, Nguyễn Tiến Chế và Nguyễn Văn Ưng, phân công đồng chí Trần Văn Quế làm Bí thư, cơ quan đặt tại Diêm Trường (Tam Giang) và làng Kim Bồng ( Hội An).
Tháng 2-1945, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị tại Vân Trai, Tam Kỳ. Sau Hội nghị Tỉnh ủy tháng 2-1945, tại Vân Trai, đồng chí Trần Văn Quế ghi trong hồi ức: Chúng tôi đóng vai hai cha con đi ăn giỗ, anh Chế bệ vệ trong bộ áo quần dài đen, tôi thì mặc bộ đồ bà ba cộc, xách tráp quả và chai rượu đi xuống Dưỡng Mông vào nhà bác Cửu Sang bàn bạc và giao nhiệm vụ cho ông và chú em của ông (chú Phong) xây dựng cơ sở vùng Bà Rén. Ở đó được hai hôm, vợ chồng ông Cửu Sang xem chúng tôi như hai ông khách ở Huế vào chơi. Sắp đặt công việc ở Dưỡng Mông xong, tôi bàn với anh Chế ở lại, còn tôi ra cầu Chợ Củi trên sông Thu Bồn, theo đò về lại Hội An và tiếp tục vào An Tân, Tam Kỳ.
Cuối tháng 4-1945, Tỉnh ủy nhận được một số tài liệu của Trung ương do đồng chí Hồng Xích Tâm đưa vào tại nhà đồng chí Nguyễn Sang. Quan trọng nhất là bản Chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, ra ngày 12-3-1945.
Cuối tháng 5-1945, Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng trên chiếc thuyền tại bến đò ông Đốc - Đại Lộc, bổ sung thêm các đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ, Chu Huy Mân - Hai Lạc, Huỳnh Đắc Hương, Phan Bá - Phan Bình vào Tỉnh ủy - phụ trách Duy Xuyên. Đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ phụ trách Đà Nẵng. Tỉnh ủy tăng cường cho Đà Nẵng đồng chí Nguyễn Thị Phi và đồng chí Nguyễn Hồng Minh. Khi Nhật lật đổ Pháp, thả tù chính trị, ta tập hợp thêm: Phan Thị Nễ, Phan Quang Trọng, Phan Tốn, Hồ Tên, Nguyễn Quang Chung, Lê Thanh Hải và Phan Khắc - là người ra tù được bổ sung thêm vào Tỉnh ủy sau cùng trước ngày khởi nghĩa nên có tên là Phan Thêm..
Đêm 13-8, cuộc họp tại nhà ông Ung Tòng ở Khương Mỹ, chuyển xuống nhà ông Nguyễn Chiến. Họp suốt đêm 13, sáng ngày 14-8-1945, ra quyết định, thành lập Ủy ban Bạo động giành chính quyền gồm 17 đồng chí và phân công về các địa phương trong tỉnh chuẩn bị khởi nghĩa. Thực hiện tinh thần chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, ra ngày 12-3-1945: Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, ngay chiều ngày 13-8-1945, từ Đà Nẵng vào, đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ cấp báo: “Nhật Hoàng đã đầu hàng Đồng Minh”.
Hồ Duy Lệ (còn nữa)