Lên núi làm ngư phủ
(Cadn.com.vn) - Thoạt nghe tưởng ngược đời, nhưng chuyện có thế thật. Từ khi thủy điện Rào Quán (H. Hướng Hóa) tích nước, những làng chài trên núi được thành lập, trong đó có không ít người đồng bằng tìm đến.
Ăn hồ… ngủ bè
Kỹ sư trẻ Đinh Anh Dũng, hiện làm việc tại khu vực đập chính của Thủy điện Rào Quán bảo rằng, muốn vào thăm các hộ ở đồng bằng lên đây làm ngư phủ thì có hai cách. Một là đi bộ khoảng một giờ quanh lòng hồ rồi xin thuyền cá của người dân đánh bắt để đi tiếp, hai là ra bến cá tự phát để xin những chủ thuyền vào đó.
Đang lưỡng lự ở chợ cá thì may mắn có thuyền của một người tên Khánh vào đó, chúng tôi xin theo. “Phải đi tìm chú mày à. Họ không ở cố định đâu, nay quãng này mai quãng khác. Mà theo tao cứ tìm nơi nào kín gió chắc chắn sẽ có họ đóng bè lập làng”, Khánh bảo.
Những câu chuyện mà “hoa tiêu” Khánh kể về lòng hồ này như loài cá ăn xác chết của người Thượng khiến bà con không ai dám đánh bắt hay những bản làng di dời để lại dưới lòng hồ nhiều báu vật khiến giới đồ cổ lùng sục... làm giảm đi sự mệt mỏi suốt đường đi.
Gia đình anh Nguyễn Công Thương lấy chiếc bè làm nhà. |
Cuối cùng, chúng tôi cũng tìm được nơi họ lập làng. Một eo vịnh có đồi núi xung quanh bao phủ, lặng gió và nhất là lực lượng kiểm tra của thủy điện rất khó phát hiện. Ánh mắt của những đứa trẻ thơ ngây lia về phía những con người lạ lẫm. Rót nước mời khách, Nguyễn Thị Phương Nhung năm nay học lớp 10 bảo: “Mấy chú vào đây có việc gì, ba mẹ em đi đánh cá từ đêm hôm qua mà chưa thấy về. Muốn mua cá tôm thì phải đợi thêm vài giờ nữa”.
Rồi em kể tiếp ở đây có hơn 10 hộ từ thị xã Quảng Trị lên làm nghề cá, ở quê cha mẹ cũng làm nghề này, nghe bảo ở đây nhiều cá, lòng hồ rộng thế là dắt díu nhau lên đây.
Những chiếc bè được dựng bằng tre kết lại, từng gia đình sinh hoạt trong cảnh chật chội. Gia đình anh Nguyễn Công Thương từ miền đồng bằng Triệu Thượng, Triệu Phong (Quảng Trị) lên đây đã được hai năm, anh mang theo hai con gái. Ngày thường khi bố mẹ đi đánh cá, cất vó thì các con ở nhà lo cơm nước. Mọi sinh hoạt đều diễn ra trên lòng hồ thủy điện này, nước sinh hoạt thì khua mái chèo ra xa, củi thì lên những vùng đồi lân cận để lấy. Cuộc sống hầu như tự cung tự cấp, lâu lắm mới nhờ các thuyền bè ra vào tiếp tế lương thực thực phẩm.
Vừa thổi cơm Nhung bảo: “Ở đây không thiếu cá tôm anh à, ăn miết cũng nhàm. Lâu lâu gửi người ngoài vào đây vài ba cân thịt là chị em mừng quýnh, rau xanh thì không có cọng nào. Lá tàu bay, rau rừng hái mãi cũng hết”.
Bè được làm từ thân tre lồ ô mọc ở hai bên bờ thủy điện ghép nối với nhau, được cố định vào các thân cây chết rục giữa lòng hồ, trôi nổi theo mức lên xuống của dòng nước. Đi đứng không cẩn thận là ngã dúi dụi. Cả nhà năm bảy người đi đứng phải ngó trước ngó sau, không cẩn thận là dẫm đạp lên nhau.
Nguyễn Thị Hải Yến hiện là sinh viên năm 3 của Trường đại học Sư Phạm Huế, nghỉ hè em theo cha mẹ vào ở hẳn lòng hồ. Rảnh rỗi thì theo cha mẹ đi buông câu thả lưới, nấu nướng giúp cha mẹ. Thời gian còn lại em giúp bọn trẻ ở đây về con chữ. “Thấy mấy đứa nhỏ vào đây mà em thương lắm anh à. Phải theo cha mẹ lênh đênh nay đây mai đó. Em cũng vậy, nên thấu hiểu được nỗi cơ cực của con nhà chài. Hằng ngày cố gắng giảng dạy cho chúng vài ba chữ để vào năm học mới chúng khỏi bỡ ngỡ. Mà cũng làm quen với nghề nghiệp tương lai của mình luôn”, Yến tâm sự.
Muôn vàn khó khăn
Ông Nguyễn Văn Đông đóng bè ở đây đã mấy năm kể rằng gốc gác của mình là người ở Quảng Trị, tha hương cầu thực rồi dạt lên vùng đất này. Khí hậu thời tiết chưa quen nên thời gian đầu đau ốm là chuyện thường tình. Vợ ông đã nhiều lần ốm nặng phải đưa đi bệnh viện huyện, may mà mắc các chứng bệnh về da liễu hay tiêu hóa vì phải uống nước hồ.
Cất vội mẻ lưới, ông bảo: “ Không chạy trời sao được chú, nắng nóng hay giá buốt thì chúng tôi không sợ nhưng dân chài sợ nhất là gió lớn bão táp. Neo bè vào gốc cây, thấy thời tiết không ổn định là giúp nhau vành bè đi nơi khác ngay lập tức. Nhiều đêm đang ngủ ngon giấc bỗng giật mình vì gió lớn, thế là già trẻ đua nhau đưa bè đi tránh. Lớp già chúng tôi quen rồi chỉ tội cho mấy đứa nhỏ”.
Lúc thủy điện xả nước bất ngờ, nước xuống rất nhanh. Nếu không thả dây theo mực nước thì chỉ có lật bè. Có lần mấy hộ ở đây khi đi làm thì nước chưa xuống, khi về đến nhà thì tất cả đồ đạc đã chìm nghỉm dưới lòng hồ. Mức nước của thủy điện thì rất sâu làm sao mà vớt lại đồ đạc được. Thế là bao nhiêu cơm gạo, tiền bạc chìm nghỉm, vợ chồng con cái ôm nhau khóc nức nở rồi bắt tay làm lại từ đầu.
Hôm chúng tôi đến chỉ còn lại vài người đống chốt để canh giữ đồ đạc, ngư cụ. Vì là ngày cưới vợ của anh Lê Văn Hiển, bạn “đồng nghiệp” của những ngư phủ ở đây. Nghe mọi người bảo rằng sau ngày cưới thì cô dâu trẻ cũng theo chồng vào đây lập nghiệp. Vậy là một công dân mới của lòng hồ sắp đến để làm dâu, hứa hẹn những đứa trẻ sinh ra và lớn lên trên lòng hồ. Và cuộc đời cũng lênh đênh như cái phận ba chìm bảy nổi của những người đã sinh ra chúng.
Theo lời của những người công tác tại khu vực đập chính của thủy điện này, những cư dân đầu tiên của lòng hồ vào đây họ dựng bè gần phần đập chính của thủy điện. Không còn cách nào khác để họ tránh xa khu vực nguy hiểm, Ban Quản lý Thủy điện Rào Quán mới cho dựng hệ thống phao nổi để ngăn cản họ không vào khu vực thân đập. Phao được thiết kế bằng cách kết các thùng phuy lại với nhau rồi nối bằng dây cáp. Thả lênh đênh chạy ngang qua khu vực sát đập mọi tàu thuyền đều không thể thâm nhập. Song ngăn cản chỗ này thì họ đi nơi khác, bởi đây là nghề gia truyền của họ.
Tạm biệt những cư dân lòng hồ, chúng tôi trở về với bao ký ức về những số phận lênh đênh. Dong thuyền đưa khách ra vùng “ngụ cư”, ông Đông bảo rằng tưởng các anh đến từ đoàn kiểm tra của thủy điện, chúng tôi định chạy trốn nhưng giờ thì an tâm rồi, ít ra khỏi phải tháo dỡ thuyền bè hay đưa tụi nhỏ đi trốn...
Bùi Đức Tú