Loại trừ bệnh lây truyền từ mẹ sang con

Thứ tư, 20/03/2019 15:00

Ngày 19-3, tại TP Đà Nẵng, Vụ Sức khỏe Bà mẹ và Trẻ em (Bộ Y tế) tổ chức hội thảo triển khai kế hoạch hành động quốc gia tiến tới loại trừ lây truyền HIV, viêm gan B và giang mai từ mẹ sang con giai đoạn 2018-2030.

Dự phòng các bệnh lây truyền từ mẹ sang con là điều hết sức cần thiết đối với thai phụ.

Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới, hàng năm riêng tại khu vực Tây Thái Bình Dương có khoảng 180 nghìn trẻ bị nhiễm viêm gan B, 13 nghìn trẻ bị nhiễm giang mai và 1,4 nghìn trẻ nhiễm HIV. Đáng nói, các bệnh này hoàn toàn có thể phòng tránh được thông qua việc can thiệp sẵn có và đơn giản như xét nghiệm sàng lọc, quản lý điều trị phụ nữ có thai và tiêm chủng cho trẻ ngay sau sinh. Tuy nhiên, tại Việt Nam cũng như ở nhiều quốc gia trong khu vực, dịch vụ dự phòng và kiểm soát HIV/AIDS, giang mai và viêm gan B vẫn được thực hiện chủ yếu thông qua hệ thống, chương trình ngành dọc, thiếu sự phối hợp, liên kết giữa các hệ thống như: chăm sóc sức khỏe sinh sản, phòng chống HIV/AIDS, da liễu, truyền nhiễm...

Vụ Sức khỏe Bà mẹ và Trẻ em cho biết, hàng năm, Việt Nam có khoảng gần 2 triệu phụ nữ mang thai thì có hơn 3,8 nghìn phụ nữ mang thai nhiễm HIV. Nếu không có can thiệp, với tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con khoảng 30-40%, ước tính mỗi năm Việt Nam có khoảng 1.140 - 1.520 trẻ em sinh ra nhiễm HIV từ các bà mẹ nhiễm HIV. Đối với dự phòng lây truyền giang mai từ mẹ sang con, theo báo cáo của các bệnh viện, tình hình mắc giang mai bẩm sinh ở trẻ sơ sinh bắt đầu có dấu hiệu gia tăng. Tuy nhiên hiện nay tỷ lệ phụ nữ có thai được xét nghiệm sàng lọc sớm giang mai chỉ khoảng 15,9%. Từ trước tới nay việc xét nghiệm sàng lọc giang mai chưa được quan tâm trong khám thai và cũng chưa có hướng dẫn chuyên môn cụ thể cho các cơ sở sản khoa. Phụ nữ trong thời kỳ mang thai bị nhiễm bệnh giang mai nếu không điều trị kịp thời sẽ lây truyền cho thai nhi qua đường máu, ảnh hướng đến sự phát triển cũng như tính mạng của thai nhi. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu, tình trạng lây nhiễm giang mai từ mẹ sang con chiếm khoảng 40-70%. Riêng về dự phòng lây truyền viêm gan B từ mẹ sang con tại Việt Nam, tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B ở nhóm phụ nữ mang thai khoảng 10-20% và 90% số trẻ sinh ra từ các bà mẹ nhiễm HBV có HbeAg dương tính có thể bị nhiễm virus viêm gan B. Do đó, việc phòng chống lây nhiễm viêm gan B từ mẹ sang con là rất quan trọng.

Ông Nguyễn Đức Vinh – Vụ trưởng Vụ Sức khỏe Bà mẹ và Trẻ em cho hay, hiện có 3 đường lây truyền quan trọng của virus viêm gan  B: từ mẹ sang con, lây truyền qua đường máu và qua đường tình dục. Trong đó, lây truyền từ mẹ mang virus viêm gan B sang con là đường lây quan trọng. Vì vậy, để giảm nguy cơ lây truyền viêm gan B qua đường này, tất cả phụ nữ trong lần khám đầu tiên trước khi chuẩn bị mang thai đều nên làm xét nghiệm xác định virus viêm gan B và xét nghiệm lại trong thai kỳ nếu cần thiết. Trẻ sinh ra từ các bà mẹ nhiễm viêm gan B có thể được bảo vệ hiệu quả bằng cách gây miễn dịch thụ động và chủ động (tỷ lệ bảo vệ trên 90%). Tổ chức UNICEF tại Việt Nam cũng đánh giá, Việt Nam đã đạt thành tựu ấn tượng trong việc kiểm soát HIV. Tuy nhiên, hằng năm vẫn có khoảng 2,5 nghìn phụ nữ mang thai nhiễm HIV, hơn 1/4 số đó không nhận được sự điều trị hay can thiệp phù hợp nhằm phòng chống lây truyền từ mẹ sang con. Ngoài ra, Việt Nam là một trong những quốc gia có số bà mẹ mang thai bị viêm gan B cao nhất thế giới, đồng thời số trẻ sinh ra mắc giang mai gia tăng.

Hiện, chúng ta đã xây dựng “Kế hoạch hành động quốc gia tiến tới loại trừ HIV, viêm gan B và giang mai lây truyền từ mẹ sang con giai đoạn 2018-2030” với mục tiêu tiến tới loại trừ lây truyền HIV, viêm gan B và giang mai từ mẹ sang con vào năm 2030. Ngành Y tế sẽ áp dụng cách tiếp cận chăm sóc liên tục và tiếp cận bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân. Trong đó xác định gói can thiệp thiết yếu hiệu quả, đảm bảo cho mọi đối tượng có thể tiếp cận được khi có nhu cầu; đảm bảo tính bền vững của chương trình can thiệp loại trừ viêm gan B lây truyền từ mẹ sang con trên cơ sở đẩy mạnh phối hợp, lồng ghép và cung cấp theo gói dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em. Đồng thời, tăng cường truyền thông, giáo dục sức khỏe, hỗ trợ người dân tiếp cận dịch vụ dự phòng lây truyền viêm gan B từ mẹ sang con được liên tục và thuận tiện; ổn định và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ y tế làm công tác sức khỏe sinh sản các cấp về can thiệp dự phòng lây truyền viêm gan B...

“Để giảm nguy cơ lây truyền viêm gan B từ mẹ sang con, tất cả phụ nữ trong lần khám đầu tiên trước khi chuẩn bị mang thai nên làm xét nghiệm xác định virus viêm gan B và xét nghiệm lại trong thai kỳ nếu cần thiết. Trẻ sinh ra từ các bà mẹ nhiễm viêm gan B có thể được bảo vệ hiệu quả bằng cách gây miễn dịch thụ động và chủ động (tỷ lệ bảo vệ trên 90%). Việc gây miễn dịch thụ động bằng cách tiêm Immunoglobulin cần được thực hiện càng sớm càng tốt trong vòng 12 giờ sau sinh. Gây miễn dịch chủ động bằng cách tiêm vắc xin cũng cần được thực hiện mũi đầu tiên trong vòng 24 giờ đầu sau sinh, các mũi sau theo lịch tiêm chủng”, ông Vinh khuyến cáo.

LÊ HÙNG