Lụt nguồn trôi trái lòn bon…
Xứ Quảng có câu ca dao về trái lòn bon gắn với câu chuyện thiên nhiên lũ lụt đã được lưu truyền nằm lòng bao thế hệ: “Lụt nguồn trôi trái lòn bon/ Mẹ đi lấy chồng con ở với ai”.
Cái sự lênh đênh của trái lòn bon vì kiếp nạn lũ lụt được so sánh với đứa trẻ mất cha sao nỗi niềm, thân phận quá. Ai bảo, “mất cha ăn cơm với cá, mất mẹ liếm lá đầu đường”. “Con ở với ai” không chỉ là câu hỏi mà còn là tiếng khóc xé lòng về một gia đình đã không còn nguyên vẹn, những đứa trẻ rơi vào thân phận mồ côi.
Nói về trái lòn bon, là dân bản xứ như tôi biết cách đây khoảng 15, 20 năm về trước, trái cây đặc sản này ở vùng đất xứ Quảng cũng khá hiếm hoi, điểm danh chủ yếu ở vùng quê Đại Lộc và Tiên Phước, nhưng những năm gần đây phát triển mạnh và trở thành một loại cây trái đặc sản khá phổ biến ở xứ Quảng.
Ngày học ở Huế, có người bạn quê Đại Lộc ở chung ký túc xá, mỗi lần về quê khi ra lại nơi học món quà mà nó mang theo thường là túi trái cây đặc sản nói trên. Những ngày vào thăm thú Đại Nội –Huế, bạn tôi mới biết thêm điều rất thú vị về những Cửu Đỉnh đặt trước sân Thế Miếu ở xứ thần kinh. Một số các sản vật ở mọi miền đất nước được chọn khắc lên trong đó thật bất ngờ có cây trái lòn bon với tên gọi Nam Trân.
Tương truyền, lúc công tử Nguyễn Phúc Ánh chạy theo chúa Nguyễn Phúc Thuần vào Quảng Nam, không may bị quân Tây Sơn phát hiện, phải trốn lên thượng nguồn. Nhiều ngày lẩn trốn, lương thực cạn, may thay giữa lúc đó gặp ở rừng có loại trái cây rất ngon ngọt, làm dịu cơn khát và đỡ đói. Nhờ vậy mà Nguyễn Phúc Ánh thoát chết để chạy tiếp vào miền Nam thực hiện ý chí "phục quốc”. Ghi ơn loại trái cây đã từng cứu mình nên Nguyễn Phúc Ánh đặt tên là Nam Trân (Quả quý nơi phương Nam). Sau ngày khải hoàn 1802, vua Gia Long đã cho rà soát để triều đình ghi ơn, trái lòn bon chính thức trở thành sản vật cung tiến. Triều Minh Mệnh đặt chức Quản Nam Trân để quản lý và quy định mỗi kỳ trái chín phải tiến vua. Khi cho đúc Cửu Đỉnh, cây Nam Trân đã vinh dự được vua Minh Mệnh cho khắc lên Nhân đỉnh, tức đỉnh thứ nhì ở sân Thế Miếu trong Hoàng thành Huế.
Nhớ hôm tôi cùng người bạn thăm thú ở Đại Nội – Huế về cũng là lúc chúng tôi đội mưa ghé quán vỉa hè lai rai với bao câu chuyện, hình như bắt đầu từ “học trò xứ Quảng ra thi”, rồi chuyện cô gái hái dâu xứ Quảng Đoàn Thị Ngọc sau thành Đoàn Quý Phi… đến trái lòn bon ở Cửu Đỉnh. Nhân lúc rượu vào nên mới có thơ rằng: “Lụt nguồn trôi trái lòn bon/ Thương thằng bạn nhậu vẫn còn đội mưa”.
“Đội mưa” trong lũ lụt với nhiều ngữ nghĩa khác nhau bởi công việc nhà nông lúc này là trăm, nghìn công chuyện nhưng với người nhậu thì đội mưa là để tìm mồi. Bởi người quê ai mà không biết, lũ lụt về cũng là lúc cá tôm, chuột, dế, rắn rít…tràn ra, nổi lên theo nước lũ nên rất dễ tìm bắt làm mồi.
Theo các cụ cao niên ngày xưa chỉ lụt, nước lên chậm (ngoại trừ một vài cơn lũ lịch sử vài chục năm mới có một lần) còn lại lũ lụt với người dân quê là khá thích thú. Bởi năm nào lũ lụt tràn qua thì đồng ruộng không còn nạn ông tí phá hoại, sâu bệnh cũng trôi đi như cuộc tẩy rửa đồng ruộng đại trà nhất. Biền bãi thì phù sa cũng bồi đắp tốt tươi không kém ruộng đồng.
Ngày chưa vãn ba kể, hồi xưa của cải đồ đạc trong mỗi gia đình nông thôn rất ít, chỉ vài chiếc giường tre, một bộ ván ngựa, bộ bàn ghế, bồ lúa, mấy hủ muối dưa chum vại gì đó… nên lũ về thì dọn dẹp rất nhanh. Heo gà thì đóng gác đưa lên, trâu bò thì dắt qua đồng cỏ, trảng đồi. Việc vàn có khi chưa xong đã hú hí gọi nhau làm món mồi ruộng đồng, ngồi lai rai chai rượu nút lá chuối, ngồi canh chừng lũ lên mà vui đáo để.
Quay về câu chuyện lụt nguồn với trái lòn bon. Đúng là ngày trước chưa biến đổi khí hậu, sự tác động con người lên tự nhiên chưa nhiều nên mưa lũ không khắc nghiệt, dữ dội như bây giờ. Câu “lụt nguồn”, như thiển nghĩ lụt gây ra vẫn chủ yếu là do những cơn mưa từ nguồn đổ về sông suối rồi tràn lên ruộng đồng làng mạc (không phải từ biển vào).
Song lũ lụt ở đây theo như người viết bài này hiểu thì đâu chỉ có lũ lụt do tự nhiên gây ra mà còn là những trận lũ lụt, bão tố ở chính trong đời sống hàng ngày của con người, trong mỗi gia đình, khi bình yên không trọn vẹn; trong không ấm, ngoài không êm, gia đình không thuận hòa hay chồng vợ lỗi đạo cang thường…, để xảy ra đổ vỡ hạnh phúc, con cái họ phải chịu cảnh mồ côi khác chi trái lòn bon dập dềnh giữa con nước bạc trong vô định phương hướng, tương lai.
Chuyện kể, ngày trước danh sĩ xứ Quảng Huỳnh Quỳ, hay còn gọi là Tú Quỳ nổi tiếng về tài làm thơ trào phúng trêu chọc bất kể quan, vua nhưng đã phải ứa nước mắt khi viết hai câu đối đám tang một người vợ khóc chồng, con khóc cha có nhắc đến trái lòn bon xứ quê mình đó là: “Sàng đầu lưu bách phiến/ Giang thượng lạc Nam Trân”, nghĩa là: Trên đầu giường còn để lại cây quạt. Ở đầu sông trôi trái lòn bon. Câu thơ nói về sự chia ly, đúng hơn là nói về cái chết nhưng không dùng một từ chết nào, hay chia ly nhưng chỉ một hình tượng trái lòn bon trôi đầu sông…, người ta nghĩ cả đoạn trường sau đó.
Giữa những ngày quê nhà chìm trong lũ lụt, một câu ca dao người xưa gợi nhắc bao điều về lịch sử, văn hóa vùng đất và cả xứ xang quê nhà. Đó là những buồn vui nếp nghĩ suy, câu chuyện nghĩa tình ở đời, các mối quan hệ giữa con người với con người nơi vùng đất “sáng chắn bão giông chiều ngăn nắng lửa”. Và cũng chính sự khắc nghiệt đó đã nảy sinh bao điều kỳ diệu, nhất là tình người trong gian khó thiên tai. Ai bảo, tình yêu thương, sự sẻ chia, đùm bọc đã có từ thời trăm trứng nở trăm con.
Tạp bút: Võ Văn Trường
Dòng sự kiện:Phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai
Thăm hỏi, trao quà bà con trong biệt lập giữa đại ngàn sau mưa lũ
Kiểm soát chặt giá sắt thép, tôn, ngói sau bão
Đà Nẵng đề xuất sớm cải tạo hồ, đập phòng, chống thiên tai
Có hay không trách nhiệm của thủy điện trong đợt mưa lũ vừa qua?
Bổ sung 200 tỷ đồng để cho người dân vay ưu đãi khôi phục SXKD sau mưa lũ












