Người Bí thư của bản làng

Thứ bảy, 10/09/2016 10:40

(Cadn.com.vn) - Khi còn đương chức Bí thư Tỉnh ủy Kon Tum, một lần về xã Đăk Kroong (huyện vùng cao Đăk Glei), đến làng Đăk Vớt, thấy một gia đình nghèo quá, trời lạnh mà chủ nhà phải cởi trần, đóng khố, ông đã cởi ngay chiếc áo đang mặc khoác lên người chủ nhà, rồi cởi luôn chiếc quần dài đưa tiếp. Ông chủ nhà cảm kích trước tình cảm, việc làm ấy đã ôm chầm lấy ông khóc và ông cũng không cầm được nước mắt…Mọi người đi cùng hôm ấy rất xúc động…Đó là  một trong những câu chuyện cảm động về ông Sô Lây Tăng, cựu Bí thư Tỉnh ủy Kon Tum.

Từ cậu bé giao liên đến Chủ tịch tỉnh...  

...Ngày ấy, làng Nú Vai, xã Đăk Kroong, H. Đăk Glei quê ông bị giặc đốt, dân làng phải chạy sang Lào rồi trôi sông, trôi suối, người mất, người còn. Ông nhớ, lên 8 tuổi, khi cách mạng về làng, người dân tưởng giặc nên chạy trốn. Cậu bé A Tăng (tên thủa nhỏ của ông) bị ốm nên không chạy được. Được bộ đội cho thuốc uống, khỏi bệnh, A Tăng là người đầu tiên trong làng nghe lời bộ đội cắt tóc (vì ngày ấy già, trẻ, trai, gái Giẻ Triêng ai cũng để tóc dài). Được bộ đội giao làm liên lạc, A Tăng đóng khố, cởi trần ngày đêm không quản hiểm nguy vượt núi cao, suối sâu mang những thông tin nóng hổi phục vụ cách mạng. Nhiều lần bị lộ, A Tăng phải chui vào bụi le giữa rừng, ngụp xuống suối trốn. Những đêm rét mướt, giữa núi rừng thâm u, bao gian nan khó nhọc nhưng được bộ đội tin giao, không việc nào cậu bé thất bại. Chiến công thầm lặng của người chiến sĩ giao liên nhỏ tuổi đã góp phần vào chiến thắng của trận Đăk Pet mà ông là một trong ba vị chỉ huy của trận mở màn này...

Kon Tum giải phóng năm 1954, khi ấy ông 17 tuổi, có mặt trong đoàn quân đi bộ từ làng Nú Vai đến Kon Tum dự lễ chiến thắng. Ông cười vui khi nhớ lại: đi bộ đến ngày thứ năm mới đến dốc Đầu Lâu (xã Đak La, H. Đăk Hà bây giờ) thì không đi được nữa. Ban tổ chức cho xe đạp đi đón, ông được  bế đặt vào gác ba ga để đèo đi mà vẫn không ngồi được, ngã lên ngã xuống mấy lần. Dự lễ chiến thắng ở thị xã Kon Tum là ngày mà ông không bao giờ quên. Ông nói: "Biết bao sung sướng tủi hờn, trông nhau mà tưởng như còn trong mơ" (Tố Hữu). Đúng là như trong một giấc mơ nhưng đó lại là sự thật. Ông kể: "Người ta bảo  tôi cởi khố ra, đưa quần cho mặc để đi dự lễ. Lúc đầu thấy khó chịu lắm vì nó cứ lỏng lẻo làm sao ấy nhưng sau dần cũng quen"... Sau đó Sô Lây Tăng được đưa ra thủ đô học tập. Ông đã học một mạch 16 năm, từ lớp một đến Đại học Y Hà Nội, cầm tấm bằng Bác sĩ y khoa, theo đoàn quân Nam tiến vào Ban dân y Khu 5. Vừa làm chuyên môn, ông vừa đi phát rẫy, tăng gia sản xuất. Chỉ huy bảo: "Thằng này cái gì cũng làm được, giỏi đấy". Rồi ông được kết nạp Đảng. Rồi ông lao đi chống sốt rét, dịch hạch, đào hố xí, vệ sinh làng bản cho dân và ngay năm ấy, ông giật luôn danh hiệu "Chiến sĩ thi đua", được bầu vào cấp ủy, phụ trách thanh niên trong những năm tháng gian khổ mà hào hùng trên núi rừng Tây Nguyên. Năm 1974 ông lên Kon Tum rồi lần lượt kinh qua: Ủy viên Ban dân y tỉnh; năm 1976; Phó ty Y tế; học Nguyễn Ái Quốc 2 năm về làm Trưởng ty; Phó Chủ tịch thường trực Ủy ban, rồi Phó Bí thư, Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai - Kon Tum... Ngày ấy,  dù có bận đến mấy, những ngày lễ, ngày truyền thống của Đoàn thanh niên, vị Chủ tịch tỉnh cũng đến thăm anh em ở cơ quan tỉnh đoàn. Ông đến với thanh niên là hòa mình ngay với lớp trẻ. Tôi còn nhớ khi còn công tác ở tỉnh đoàn, một lần ông và nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Ka Ba Tơ đến thăm cơ quan. Hôm ấy, cặp song ca Sô Lây Tăng - Ka Ba Tơ trong giai điệu "Đảng là cuộc sống của tôi" vang lên trong căn phòng nhỏ chật kín thanh niên như tiếng kèn xung trận, giục giã tuổi trẻ chúng tôi tiến bước... Hát đến câu "Đảng là một ngôi sao sáng, sáng nhất trong muôn vì sao…Đảng làm nên bài ca chiến thắng, cho đất nước và tình yêu", ông bật khóc thành tiếng...Tôi hiểu, tình cảm của ông với Cách mạng, với Đảng đã thấm sâu vào máu thịt và ngọn lửa nhiệt huyết vì buôn làng Tây Nguyên trong ông vẫn tròn đầy và ấm nóng.

Ông Sô Lây Tăng và tác giả.

Trở về với buôn làng Kon Tum

Cuối năm 1991, Gia Lai- Kon Tum được chia tách thành hai tỉnh. Đại hội Đảng bộ tỉnh Kon Tum lần thứ X, tháng 12-1991, ông Sô Lây Tăng được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy trong chặng đường đầu tái lập tỉnh đầy cam go. Với trọng trách người đứng đầu của một tỉnh cực bắc Tây Nguyên còn nghèo nhất nhì cả nước làm ông bao phen mất ăn mất ngủ. Ông bảo: "Muốn có chủ trương đúng thì phải bám sát dân, phải đi cơ sở nhiều, lắng nghe dân nói, nghĩ cho cùng, mọi chủ trương, nghị quyết của Đảng phải bắt nguồn từ cuộc sống". Thế là, cứ có thời gian là ông lại "nhảy" đi cơ sở, tìm về với dân ở các buôn làng xa xôi. Ông bảo: "Dân được gặp lãnh đạo cao nhất tỉnh là mừng lắm. Hơn nữa mình còn là đại biểu Quốc hội. Bà con nói cho mình nghe hết, chuyện cơm, áo, gạo, tiền, chuyện dân chủ, chính sách, sinh hoạt...Tuy chưa thoả mãn hết được cho dân nhưng đã làm được khoảng 80% rồi, thế cũng là mừng. Nhưng mình vẫn còn nợ dân nhiều lắm...".       

Khi đi cơ sở vận động bà con dân tộc thiểu số cách làm ăn mới, ông phải làm mẫu cho dân. Ông chung vui thâu đêm bên những ché rượu cần với bà con buôn làng vùng sâu; hoà cùng lời hát dân ca, chung bước trong những điệu xoang trong những đêm lửa ấm giữa rừng... là những hình ảnh "thường ngày" của Sô Lây Tăng. Ông nói rằng: "Phải như thế dân mới tin, mới nghe mình, phải sống chết với dân, mất dân là mất hết".  Khi đi cơ sở, lúc nào ông cũng mang theo túi thuốc cấp cứu, sẵn sàng chữa bệnh cho dân. Chẳng thế mà đã có nhiều chuyện kể ông đi đỡ đẻ, "mẹ tròn con vuông" là việc bình thường... Tranh thủ những kỳ họp Quốc hội, họp Trung ương..., ông đều ghé đến các bộ, ngành để lo những việc nghị sự cho phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Ưu tiên cho Tây Nguyên vẫn  là số một của Đảng, của Chính phủ nên những việc ông đề nghị cho tỉnh, thường được cả. 10 năm làm Bí thư Tỉnh ủy, 15 năm làm đại biểu  Quốc hội (khóa VIII, IX, X), Sô Lây Tăng-vị Già làng Tây Nguyên (theo cách gọi thân mật của người dân) đã để lại cho lịch sử Đảng bộ tỉnh Kon Tum bao sự kiện, từ không đến có, tuy chưa giàu nhưng nghèo đói đã và đang được đẩy lùi, cuộc sống mới dần lan tỏa đến mọi nhà. Công sức ấy thuộc về tập thể Đảng bộ tỉnh, nhưng phần của ông thật không nhỏ...

Hồi sinh viên trường Y Hà Nội, Sô Lây Tăng yêu cô gái Lâm Thị Thoan, quê lúa Thái Bình. Tốt nghiệp ra trường, họ cưới nhau và hòa vào đoàn quân Nam tiến. Đến địa đầu phía bắc Tây Nguyên, cơn sốt rét ác tính đã cướp đi người vợ yêu quý của ông. Biến đau thương thành nghị lực của người cộng sản, bác sĩ Sô Lây Tăng lại bước tiếp cuộc trường chinh trong núi cao, rừng sâu gian khổ; trong lòng khát khao sẽ đến ngày chiến thắng  để trở về buôn làng. Tháng 8-1974, ông theo đơn vị về H. Đăk Glei quê ông tuyển quân. Dịp này, ông được hai gia đình mai mối  và làm lễ cưới với Y Sỏi, cô gái làng Nú Vai. Ở với nhau được tuần lễ, chia tay vợ, ông lại đi về tỉnh... Chuyện đến đây, Y Sỏi xen vào: "Hồi ông nhà tôi về làng, tôi đâu có biết ông là bác sĩ, là cán bộ gì đâu. Chỉ thấy ông đeo ba lô, mang thuốc về chữa bệnh cho bà con, anh tôi bảo: "Lấy thằng Tăng đi em". Thế là tôi gật đầu". Vợ chồng ông sinh hạ được 3 người con, cô con gái đầu Sô Lây Mai hiện là Trưởng phòng Dân tộc thành phố Kon Tum, con trai Sô Lây Ngai, nay là phó Bí thư huyện ủy Ia H'Dai, còn người con út công tác ở công an tỉnh... Kể cả khi còn đương chức và khi đã nghỉ hưu, căn nhà ông ở đường Phan Đình Phùng, thành phố Kon Tum lúc nào cũng đông khách. Bà con ở xa lên tỉnh ghé vào chơi, ngủ lại, ăn cơm. Bệnh nhân điều trị  ở bệnh viện tỉnh gần sát nhà ông thì người nhà đến ngủ lại, nấu nướng. Bà Y Sỏi khoe: "Từ hồi lấy nhau đến giờ, vợ chồng chẳng bao giờ cơm không lành, canh không ngọt đâu nhé.  Bây giờ già rồi nhưng vẫn chăm bẵm nhau như lúc tuổi xuân ấy". Bây giờ tuy đã sang tuổi 80 nhưng hễ có dịp ông vẫn đi thăm hỏi bà con đồng bào các dân tộc trong tỉnh...

Tây Nguyên mùa mưa giăng tràn với những cánh rừng cao su, cà phê đang bật dậy những chồi non xanh thẳm. Nhánh lan rừng treo trước cửa nhà ông đã nở. Cánh hoa trắng muốt như chính tấm lòng ông vậy. Sô Lây Tăng, một người con của dân tộc Giẻ- Triêng - ông đã sống với buôn làng Tây Nguyên như một tình yêu không bao giờ ngưng chảy, vẫn sáng trong như suối tận nguồn, vẫn son sắt, thủy chung một mối tình Dân - Đảng.

Ký của Nguyễn Văn Chiến