“Thanh thản như trời mây vần vũ”

Thứ tư, 13/01/2010 00:00

(Cadn.com.vn) - Tôi được nghe danh ông từ những năm sau ngày quê hương hoàn toàn giải phóng, khi ấy ông đang là Trưởng ty Giáo dục QN-ĐN. Còn ba má tôi là giáo viên. Cái tên Trương Anh Ta thường được nhắc trong các bữa cơm gia đình chúng tôi với sự trân trọng, ngưỡng mộ.

Lúc ấy, tôi nào biết ông từng là một người lính chân đất cầm mã tấu tự vệ, một quân nhân cầm súng bộ binh, rồi qua làm công tác tuyên giáo, từng lên bục giảng các bài học cơ bản của cách mạng ở các trường lưu động, trường Đảng nông thôn trong những năm tháng chống Mỹ khốc liệt. Nào biết ông từng in dấu chân ở khắp nẻo đường kháng chiến, lăn lộn ở các vùng tự do, các vùng địch hậu, các vùng tạm chiếm của tỉnh QN-ĐN cho đến ngày cùng đoàn quân giải phóng dũng mãnh tiến về giải phóng thành phố hoa lệ bên dòng Hàn thơ mộng.

Trương Anh Ta là tên hoạt động cách mạng, còn tên thật của ông là Trương Xuân Thành, sinh ra ở Phiếm Ái (Đại Nghĩa, Đại Lộc, Quảng Nam). Ông yêu mến gọi làng mình là một “phím đàn yêu” - một cách chơi chữ dễ thương. Ông kể với tôi rằng, Phiếm Ái là đất học, đồng thời tên làng ông còn kiêu hãnh đi vào lịch sử đất Quảng và lịch sử nước Việt như một mốc son.

Nơi đây phát nguồn phong trào nông dân vĩ đại nhất đầu thế kỷ XX trước khi có Đảng: Trung Kỳ dân biến (1908). Nhiều yếu nhân của phong trào là người thuộc tộc họ ông - tộc Trương. Họ là 4 anh em ruột: Trương Côn, Trương Tổn, Trương Đính, Trương Hoành- nguyên là học sinh Trường Khâm Thiên Giám - những thủ lĩnh tài ba trong việc phát động quần chúng xuống đường tranh đấu.

“Văn chương nết đất, thông minh tính trời”- cụ Tố Như dạy chẳng sai. Trên “nết đất” Phiếm Ái, ông nội ông và cha ông đều là những nhà nho thông minh và hiếu học. Ông nội là thầy thuốc Bắc và kiêm thầy dạy chữ nho trong làng; cha ông là một thầy giáo, tính tình cương trực bảo vệ dân lành bị giặc Pháp đánh đến chết. Cha mất sớm, mẹ một nách 4 con thơ, tần tảo lo cho ông- đứa con đầu lòng- ăn học cho bằng người.

“Ai ra đi ngày ấy/Ngã xuống vẫn mỉm cười/Ai về còn sót lại/Bật khóc giữa ngày vui”. Vâng, ông thuộc thế hệ cán bộ cách mạng đầy khí phách và bản lĩnh như thế. Tham gia cách mạng từ hồi tiền khởi nghĩa (3-1945). Sau Cách mạng Tháng Tám, từng giữ chức Chủ tịch UBND cách mạng xã Hòa Ái, rồi Ủy viên Ủy ban Hành chính xã Đại Nghĩa. Cuộc đời ông bao nỗi truân chuyên, có lúc mong manh giữa sự sống và cái chết.

Sau Hiệp định Genève (7-1954), ông được cấp trên lệnh cho về sống hợp pháp để chờ thời cơ. Nhưng bị một tên chỉ điểm dò theo, ông bị bắt giam vào nhà lao dã chiến Đông Lâm. Không khai thác được tin tức nào từ người chiến sĩ cộng sản kiên trung bằng đòn roi, tra tấn dã man, địch định thủ tiêu ông bằng cách bỏ vào bao tời nhận chìm xác dưới đáy sông Vu Gia. Cơ hội sống sót của ông thật quá bất ngờ: Để đón tiếp bọn quan trên về thị sát tình hình, mọi hành động giết chóc phải tạm dừng.

Nhân cơ hội đó, ông tìm cách trốn thoát, được cơ sở cưu mang, lo cơm thuốc, phục hồi sức khỏe. Từ năm 1954- 1959, ông đã nhiều lần thoát khỏi sự truy sát của kẻ thù trong gang tấc, nhưng ông và đồng đội vẫn như con ong cần mẫn bí mật ngày đêm xâu chuỗi, bắt rễ, kiên trì phát động phong trào đòi hiệp thương Tổng tuyển cử, chống khủng bố, bắn giết người kháng chiến cũ, cố giữ ngọn lửa cách mạng trong lòng dân. Những năm 1962- 1964, ông là Bí thư Huyện ủy Đại Lộc, đứng mũi chịu sào trong hoàn cảnh cách mạng gặp muôn vàn khó khăn, một mất, một còn với kẻ thù hung hãn và nham hiểm.

 Ông Trương Anh Ta

Ông là một nhà giáo có tài, có tâm, có tầm. Khoảng đầu năm 1971, ông được cấp trên phân công làm Trưởng ban Giáo dục tỉnh Quảng Đà. Ông cùng đồng nghiệp toàn tâm, toàn ý mở các trường cấp 1, cấp 2 cho con em cán bộ ở đồng bằng rút lên căn cứ, đã góp sức đào tạo nên một lớp thanh, thiếu niên có lòng yêu nước thiết tha, biết căm thù giặc sâu sắc và có trình độ học vấn để bảo vệ và xây dựng quê hương.

Đất Quảng hoàn toàn giải phóng (3-1975), với tinh thần cởi mở, với bản lĩnh chính trị vững vàng, tất cả vì sự nghiệp giáo dục, ông chủ trương thu nhận các thầy cô giáo ở chế độ cũ bằng lòng đăng ký làm việc với chính quyền cách mạng. Năm học 1975 - 1976, năm học đầu tiên sau giải phóng. Và, ngày tựu trường năm học ấy quả là một ngày vui lớn của một đất nước sau chiến tranh; học sinh tự do, thầy cô giáo tự do. Ngập tràn niềm vui, tất cả chào đón một tương lai huy hoàng đang mở ra phía trước.

Đứng giữa TP Đà Nẵng vừa giải phóng, ông vẫn nhớ khôn nguôi chiếc nôi cách mạng từ núi cao hùng vĩ Trường Sơn, với những buôn làng hẻo lánh mù sương. Ông tự vấn: Phải làm gì đó để đưa học vấn đến chốn thâm sơn cùng cốc? Ông gọi đây là món nợ với bà con các dân tộc ít người kiên cường và thủy chung, son sắt với cách mạng. Ông đã tham mưu cho cấp trên phát động, kêu gọi và tổ chức đăng ký hơn 5 ngàn nam, nữ giáo viên hăng hái tự nguyện lên dạy học ở các huyện miền Tây Quảng Nam - Đà Nẵng.

Năm 1987, ông nghỉ hưu tại P. Mân Thái, Q. Sơn Trà, TP Đà Nẵng nhưng cái máu văn nghệ tiếp tục tuôn trào. Ông tham gia Hội VH-NT Đà Nẵng, Hội Nhà văn Đà Nẵng, CLB Hàn Giang, Thái Phiên. Tuổi cao, lại phải dùng máy trợ thính, không hiểu ông lấy đâu ra sức lực để mà nghe, mà đọc, mà viết. Từ năm 1994, với bút danh Thanh Trường, ông lần lượt cho ra mắt bạn đọc một loạt tác phẩm thơ: Bóng nước Vu Gia, Giọt sương, Nguồn đất, Hai màu lá, Trang nhật ký và hai tập bút ký: Những năm tháng ở lại miền Nam, Tuyến lửa sông Côn.

Đọc thơ Thanh Trường, Giáo sư Hoàng Châu Ký nhận xét: “Những bài thơ để lại trong tôi nhiều tình cảm sâu đậm nhất vẫn là những bài về cuộc chiến đấu gian khổ, quyết liệt suốt 20 năm chống Mỹ của quê hương ta, nhân dân ta mà Trương Anh Ta luôn có mặt... Trương Anh Ta ghi lại bao nỗi đau riêng từ trong kháng chiến trường kỳ gian khổ ấy, những tiếng lòng xót xa, thiết tha mà dũng cảm... Vì vậy, thơ anh chân chất, trung thực, dễ rung cảm lòng người”.

Thật vậy, trải qua bao sóng gió của cuộc đời, bằng kinh nghiệm và tri thức của một người từng trải, ông tâm sự: “Làm thơ không phải chỉ giữ lại một kỷ niệm riêng tư mà phải hòa nhập tình cảm của mình với mọi người”.

Trương Anh Ta đã đi xa. Đã bước sang năm 2010, nhớ về ông, tôi nhớ về câu thơ: “Thanh thản như trời mây vần vũ”. Một câu thơ 7 chữ chứa đầy nghịch lý. Trời mây vần vũ thì làm sao mà thanh thản được? Nhà thơ Đông Trình lý giải rất xác đáng: “Ấy là sự tĩnh tại của thơ đã tạo ra sự thanh thản gần như không có được cho tâm hồn con người. Viết một câu như vậy là nắm được quy luật vận hành của thiên nhiên, vũ trụ và của đời sống nội tâm con người”. Ông đã thanh thản ra đi sau khi đã làm xong phận sự của một CON NGƯỜI - kiên cường trong tranh đấu, đậm chất nhân văn trong đời thường. Ông thanh thản về cõi vĩnh hằng, để lại “hồn thơ thấp thoáng ánh lên từ cái giọt sương riêng của tác giả” (lời nhà thơ Thanh Quế) đọng mãi trên dương thế. Soi vào bóng nước Vu Gia, ta có thể bắt gặp hồn thơ dung dị và ngọt ngào ấy!

Vân Thu