Vụ “Bắt giữ người trái pháp luật” ở quận Thanh Khê: Bị cáo khẳng định vô tội, tòa tiếp tục trả hồ sơ điều tra bổ sung

Thứ năm, 13/07/2017 13:10

(Cadn.com.vn) - Sau hơn 3 tháng trả hồ sơ điều tra bổ sung, ngày 11-7 TAND Q.Thanh Khê (Đà Nẵng) mở phiên tòa xét xử đối với bị cáo Nguyễn Hoàng Tuấn (1983, trú P.Xuân Hà, Thanh Khê, Đà Nẵng) về tội “Bắt giữ người trái pháp luật”...

Theo nội dung cáo trạng thể hiện: khoảng 11 giờ ngày 25-4-2016 tại quán cà-phê số 168-Lý Tự Trọng (Đà Nẵng), do không thỏa thuận được việc trả nợ, Tuấn đã có hành vi bắt anh Huỳnh Ngọc Nam (trú tổ 43B, An Hòa, An Hải Bắc, Sơn Trà, Đà Nẵng) lên ô-tô đưa đến trước Trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng 2 (số 2-Ngô Quyền, Đà Nẵng) để gặp Nguyễn Thị Quỳnh Hoa (vợ của Nam) yêu cầu trả nợ. Sau đó Tuấn đưa anh Nam về nhà mình tại địa chỉ K25/26- Hà Huy Tập (P.Xuân Hà, Thanh Khê, Đà Nẵng) rồi tiếp tục giữ anh Nam đến sáng ngày 26-4-2016 để yêu cầu trả nợ.

Ngay sau khi VKS công bố nội dung cáo trạng, bị cáo cho rằng bản cáo trạng truy tố diễn biến hành vi phạm tội của bị cáo không phù hợp. Trước tiên được thể hiện ngay việc gặp gỡ Nam tại quán cà-phê. Cuộc gặp gỡ này không mang tính chất đòi nợ. Nam là người chủ động điện thoại mời bị cáo đi uống cà-phê, địa điểm cũng là Nam chủ động trước... và đặc biệt trong lần cà-phê đó bị cáo nói với Nam về số nợ mà Nam còn nợ mình. Trong đó, bị cáo có nói rằng số tiền nợ của bị cáo có thể một hai năm nữa trả cũng được, riêng số nợ của bạn bị cáo là anh Nguyễn Ngọc Lâm (Sơn Trà, Đà Nẵng) thì ưu tiên trả trước. Nam cũng đã thống nhất với nội dung này. Chính vì vậy giữa bị cáo và Nam không có bất cứ lý do gì để bị cáo thúc ép, bắt giữ Nam.

Theo bị cáo Tuấn, việc bị cáo đi cùng ô-tô, chở Nam đến nơi làm việc của chị Hoa (vợ Nam) là vì biết được lý do Nam sử dụng số tiền của mình không đúng với mục đích ban đầu (đầu tư làm ăn) mà sử dụng vào việc cá độ bóng đá, không chỉ vậy Nam đã tự ý bán chiếc xe máy bị cáo cho anh Nam mượn trước đó... nên bị cáo tức giận và có đánh Nam lúc trên xe. Tại tòa, các nhân chứng trình bày: trong thời gian anh Nam ở lại nhà bị cáo vẫn sinh hoạt đi lại bình thường không có gì thể hiện việc hạn chế đi lại, gò bó, ép buộc. Trong đó lời khai của người bán hàng tạp hóa tại khu vực bị cáo sinh sống thể hiện: Nam vẫn ra vào mua thuốc hút, đi một mình, thái độ bình thường không có điều gì tỏ ra sợ sệt... Lời khai của một số nhân chứng khác cũng thể hiện việc anh Nam ở lại nhà bị cáo là chuyện rất bình thường.

Theo lời bị cáo, nếu nói bị cáo bắt giữ anh Nam để đòi nợ, quá trình anh Nam ở nhà bị cáo bị thúc ép, sợ sệt... thì tại sao khi CAP Xuân Hà (Thanh Khê, Đà Nẵng) vào làm việc, anh Nam không trình bày, không kêu cứu nếu đó là sự thật. Và, nếu là bị bắt ép tại sao anh Nam lại có thể đi ra - vào mua thuốc một mình và những lúc như vậy anh Nam có đủ điều kiện để “thoát thân” tại sao tất cả những điều đó anh Nam không làm? Không chỉ vậy, tại bản đối chất mới đây (sau khi tòa trả hồ sơ điều tra bổ sung) thể hiện nội dung anh Nam khai, trong buổi sáng anh Nam chủ động mời bị cáo uống cà-phê đã thỏa thuận xong nội dung việc trả nợ số tiền 160 triệu đồng cho bị cáo sẽ thực hiện sau 1-2 năm, hiện tại ưu tiên trả nợ cho anh Lâm... như vậy bị cáo càng không có động cơ, mục đích gì để phải bắt giữ anh Nam.

Bị cáo Tuấn.

Tham gia bào chữa cho bị cáo Tuấn có 3 luật sư (LS). Ý kiến của cả 3 LS tham gia bào chữa cho bị cáo Tuấn đều không thống nhất với quan điểm truy tố của VKS về tội danh. Trong đó ý kiến của LS Lê Văn Kiên – LS thuộc Văn phòng LS Ánh sáng công lý –Đoàn LS TP Hà Nội cho rằng cần làm rõ lý do vì sao kể từ khi vụ án đưa ra xét xử đến nay, bị hại chưa một lần tham dự, liệu bị hại đang trốn tránh điều gì? Chính vì sự vắng mặt “không bình thường” này LS đề nghị HĐXX xem xét những lời khai nào của bị hại mà không phù hợp với thực tế, không được đối chất với bị cáo thì không chấp nhận và phải áp dụng lối suy đoán không có tội (có lợi) cho bị cáo. Thứ hai, việc CAP vào làm việc với đối tượng bị “tố” có hành vi vi phạm pháp luật nhưng tại sao không có biên bản ghi nhận, biên bản làm việc ngay hôm đó. Thứ ba, có rất nhiều “cơ hội” để anh Nam bỏ đi hay tố hành vi sai trái của bị cáo ngay lúc đó nhưng tại sao bị hại không làm. LS có rất nhiều câu hỏi muốn trực tiếp hỏi bị hại để làm rõ tuy nhiên rất tiếc chưa có phiên tòa nào được diện kiến bị hại. Trong suốt quá trình xét xử cũng như trong hồ sơ vụ án chưa có một nội dung nào thể hiện bị cáo đề nghị những người bạn có mặt tại đó yêu cầu phải để ý đến anh Nam, không cho anh Nam rời khỏi nhà...

Các LS cho rằng, quá trình truy tố cáo buộc bị cáo, VKS luôn đưa ra những nội dung không phù hợp làm bất lợi cho bị cáo. Quá trình xét hỏi bị cáo rất thành khẩn khai báo, diễn biến sự việc phù hợp với các lời khai khác có trong hồ sơ vụ án thậm chí phù hợp với một số lời khai của bị hại trước đó... Chính vì lẽ đó không có cơ sở để quy kết bị cáo Tuấn vi phạm tội “Bắt giữ người trái pháp luật” nên, cả 3 LS tham gia bào chữa cho bị cáo Tuấn đề nghị HĐXX tuyên bị cáo vô tội và trả tự do cho bị cáo ngay tại tòa. Đối đáp với ý kiến của các LS, VKS viện dẫn một số điều luật, các quy định về chứng cứ trước tòa, các điều khoản áp dụng... và khẳng định không thể áp dụng lối suy đoán vô tội đối với bị cáo. Vì vậy, VKS giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Tuấn.

Tại tòa, sau phần tranh luận, xuất hiện ông Nguyễn Văn Hòa (1980, trú P.Xuân Hà, Thanh Khê, Đà Nẵng) và ông Hòa cho rằng mình có thể giải đáp được lý do vì sao ông Nam lại ở nhà bị cáo Tuấn. Theo ông Hòa, ông Nam là bạn của ông còn bị cáo Tuấn là hàng xóm. Nam là người nợ tiền của rất nhiều người và đang bị đòi nợ ráo riết, việc ông Nam đến nhà bị cáo Tuấn là vì lý do trốn nợ. Không chỉ vậy, sau khi ở tại nhà bị cáo Tuấn 2 ngày, ông Nam đã đến ở tại nhà ông Hòa 7 ngày và chính ông là người cho ông Nam mượn 40 triệu đồng để trả nợ trước khi ông Nam về nhà... Tuy nhiên, sau khi xem xét, HĐXX xét thấy những nội dung ông Hòa trình bày trong đơn xuất hiện sau thời gian xảy ra vụ việc nên ông Hòa không được xem là nhân chứng của vụ án.

Sau 1 ngày xét xử, HĐXX xét thấy còn nhiều nội dung trong quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung lần trước chưa được làm rõ; các nhân chứng và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người bị hại chưa được đối chất; có nhiều chứng cứ quan trọng nhưng không có trong  hồ sơ vụ án. Cần làm rõ nội dung trao đổi làm việc của CAP, làm rõ nội dung tin  nhắn của bà Hoa gửi cho ông Nam, làm rõ hành vi dùng vũ lực của bị cáo đối với anh Nam khi ở trên xe... Nhận thấy cần thiết phải làm rõ trước khi đưa ra phán quyết cuối cùng, HĐXX quyết định tiếp tục trả hồ sơ điều tra bổ sung...

TRANG TRẦN