Khi nào di chúc miệng có hiệu lực?
*Luật sư Phan Thụy Khanh, Phó trưởng Văn phòng Luật sư Phong & Partners - Trưởng chi nhánh Sơn Trà, trả lời:
Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, di chúc có hai hình thức là di chúc được lập bằng văn bản và di chúc bằng miệng. Di chúc bằng văn bản bao gồm bốn loại như sau:
1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;
2. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;
3. Di chúc bằng văn bản không có công chứng;
4. Di chúc bằng văn bản có công chứng.
Đối với di chúc miệng, Điều 629 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“1. Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.
2. Sau 3 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.”
Như vậy, di chúc miệng là một trong những hình thức di chúc được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, để được hợp pháp, di chúc miệng cần đáp ứng các điều kiện được quy định cụ thể tại Điều 630 Bộ luật dân sự 2015 như sau:
Người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng;
Ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ;
Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.
Về người làm chứng, Điều 633 Bộ luật Dân sự quy định những người sau đây không được là người làm chứng cho việc lập di chúc (bao gồm di chúc bằng văn bản hoặc di chúc miệng):
Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Điều 637 Bộ luật Dân sự quy định những người sau đây không được thực hiện việc công chứng, chứng thực di chúc:
Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
Người có cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
Theo thông tin anh Lâm cung cấp, mặc dù bạn của anh đã thể hiện ý chí để lại tài sản cho anh trước mặt bác sĩ và điều dưỡng, có thể xem là đã lập di chúc miệng; nhưng di chúc này chưa đáp ứng các điều kiện theo quy định pháp luật để đảm bảo có hiệu lực như đã phân tích ở trên. Ngoài ra, sau hơn 3 tháng kể từ thời điểm được coi là lập di chúc miệng, bạn của anh còn sống khỏe mạnh nên di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ. Từ đó, có thể thấy anh Lâm không đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế từ người bạn của mình. Di sản của người bạn sẽ được chia theo pháp luật như sau:
“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”
Người bạn của anh Lâm còn có một người em gái (người thân duy nhất), thì người em gái này sẽ là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ hai, có quyền hưởng di sản do anh trai mình để lại.
Chuyên mục này có sự hợp tác về chuyên môn của Văn phòng Luật sư Phong & Partners. Đường dây nóng hỗ trợ tư vấn: 0236.3822678 - 0905.102425