Làng rèn giữa phố

Thứ sáu, 10/06/2016 10:29

(Cadn.com.vn) - Thật khó tin, ở giữa khu vực trung tâm, phồn hoa nhất của Đà thành, đến nay, vẫn tồn tại một làng rèn thủ công nằm nép mình lặng lẽ ở các con hẻm nhỏ ở P. Hải Châu 2, Q. Hải Châu, Đà Nẵng.

Thời thịnh vượng nhất của phố rèn thủ công này là vào năm 1988, chỉ tính dọc đoạn đường Nguyễn Trãi có đến 25 hộ với hàng trăm lao động làm nghề rèn. Ngày đó, đi qua đoạn đường này, người ta nghe thấy tiếng búa đập, máy cắt, tiếng hàn xì vang khắp nơi, tiếng mua bán rộn ràng cả góc phố nhỏ... Người già nơi đây không còn nhớ phố nghề này có từ khi nào, chỉ nhớ là cách đây cả trăm năm, ông tổ nghề đã ra đời và truyền lại cho lớp lớp cháu con. Thời thịnh vượng nhất của phố nghề là vào năm 1988, khi đó, dọc đoạn đường Nguyễn Trãi có đến 25 hộ với hàng trăm lao động làm nghề rèn. Sản phẩm được bán cho các chợ quê ở trong và ngoài thành phố. Gia đình ông Trương Mó (85 tuổi) đã sống với nghề hàng chục năm nay, nuôi 9 người con trưởng thành, có việc làm ổn định. Hiện nay, 4 người con ông lại tiếp tục nối nghiệp cha gắn bó với nghề rèn. Hay như gia đình ông Hoàng Râm (82 tuổi), cũng là thợ rèn nổi tiếng một thời. Với nghề rèn, ông Râm đã nuôi 8 người con ăn học thành tài, hiện 3 người con đang nối nghiệp ông...

 Đến “xưởng” rèn nhà ông Trương Mó vào giờ nghỉ trưa, nhưng những người thợ ở đây vẫn luôn tay đập đập gõ gõ, hoàn thiện sản phẩm để kịp giao hàng. Anh Trương Chính (40 tuổi), con trai ông Mó cho biết, thời buổi này duy trì nghề rèn, làm ra sản phẩm hoàn toàn bằng thủ công thế này không dễ, có đơn hàng là phải tranh thủ làm ngay. Muốn theo được nghề, không chỉ khéo tay mà cần phải kiên trì, có sức khỏe và chịu khó.

Người thợ rất dễ bị bệnh nghề nghiệp như: mắt yếu, bệnh phổi, giảm thính giác... Từ việc xuất đi các sản phẩm như cuốc, xẻng, xà beng, đục, bù lon, ốc vích..., thu nhập trung bình mỗi thợ, trong những tháng cao điểm chỉ khoảng từ 150-250 ngàn đồng/ ngày. Vì vậy, cả phố rèn ngày trước đến nay nhiều người đã rẽ tìm lối làm ăn khác, số có điều kiện thì đầu tư máy móc, mở rộng sản xuất ở những con phố lớn, mặt tiền. Có máy móc, công việc của người thợ rèn sẽ đỡ nhọc nhằn hơn, sản phẩm làm ra nhanh hơn, nhiều hơn, song, theo anh Chính, có những đồ vật đòi hỏi bàn tay khéo léo của người thợ, máy móc không thể làm thay, như cuốc chỉa, cây đinh đóng tàu... Anh Chính cười nói “không lo hết việc” và quyết tâm giữ nghề.

Quây quần trong xóm rèn thủ công này, lò rèn anh Trương Nhiên Minh (48 tuổi) cũng liên tục đỏ lửa, dù tại lò hiện chỉ có 2 lao động chính là anh Minh và vợ. Anh Minh theo nghề đã 30 năm và là đời thứ 4 trong gia đình theo nghề rèn. Ông cố, ông nội anh Minh vốn là những người thợ lành nghề của làng rèn Hiền Lương (xã Phong Điền, H. Phong Điền, TT-Huế) nức tiếng một thời. Thừa hưởng sự khéo léo của cha ông, các sản phẩm của anh Minh bao giờ cũng có nét riêng. Những khách hàng quen đã “trót” dùng sản phẩm rèn bằng tay của anh thì rất khó lòng chấp nhận những sản phẩm làm bằng máy khá phổ biến ngoài thị trường. Theo anh Minh, nghề nào cũng đòi hỏi bí quyết và kinh nghiệm. Với thợ rèn, để sản phẩm làm ra đạt chất lượng, phải lựa chọn sắt thép, biết nhìn lửa để tạo ra độ sắc, bền cho từng sản phẩm... Do vậy, để đạt được trình độ nhất định, người học nhanh cũng phải mất từ 1-2 năm.

 

Những người thợ ở xóm rèn thủ công này cho biết, có nhiều người đến đây học nghề rồi bỏ vì không chịu được sự vất vả, nhọc nhằn, tiếng ồn và bụi than đá. Có khi ba người thợ phải bưng một khối sắt nặng đến 100kg để rèn dây xích neo tàu. Vì sản phẩm rèn bằng tay của làng chủ yếu là các nông cụ nên công việc của những người thợ rèn này cũng phụ thuộc mùa vụ, nhiều tháng mùa mưa chỉ ngồi chơi không...

Công việc nặng nhọc, vất vả, thu nhập không hấp dẫn, song tình yêu nghề của những người thợ rèn lam lũ dường như đã ngấm vào máu. Họ không gọi thứ tình cảm thiêng liêng đó bằng những mỹ từ bóng bẩy như “đam mê”, hay “sống chết với nghề”... Chỉ giản dị như cách nói của anh Trương Lốp–người thợ có 30 năm trong nghề rèn thủ công, rằng “còn sức thì còn làm thôi”...

Mộc Miên