Quận chúa biệt động (4)

Thứ hai, 07/04/2008 00:00

Kỳ 4: Bị bắt ở Đà Lạt

Các bài liên quan:

Kỳ 1: Nợ nước thù nhà

Kỳ 2: Bi hài chuyện lấy chồng

Kỳ 3: Ra thăm Bác Hồ

Kỳ cuối: Ký sự cuộc đời

 

Nỗi oan khó nói nên lời

(Cadn.com.vn) - Ngày 27-8-1969, sau khi tiến hành vụ ám sát Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không thành, Ba Diệp đã xung phong đánh bom cảm tử vào rạp Ngọc Lan - TP Đà Lạt. Hàng trăm sĩ quan Mỹ, và chính quyền Sài Gòn chết và bị thương. Cả Đà Lạt náo loạn bởi tiếng còi xe cấp cứu và sự truy lùng thủ phạm của cảnh sát. Nhưng cũng trong trận đánh này, do thù hằn cá nhân hèn hạ của một đồng đội, Ba Diệp đã bị một nỗi oan khó nói. Chán nản, chị đã xung phong cùng đội cảm tử sang công tác và chiến đấu tại chiến trường Lào 3 năm. Trong một trận đánh, một mảnh đạn găm vào hộp sọ, phía sau tai trái của Ba Diệp nhưng chị chỉ băng bó tạm và chung sống với mảnh đạn ấy suốt một thời gian dài.

Cuối tháng 4-1972, Ba Diệp bí mật về nước để cùng một nhóm biệt động thâm nhập vào cứ điểm Đắc Tô - Tân Cảnh của đối phương, góp phần cùng bộ đội chủ lực tiêu diệt chúng. Khi vừa trở lại Đà Lạt thăm con, mua gạo tiếp tế cho Khu 6, chị đã không may sa vào tay đối phương...

Ba Diệp bị bắt khi đang ăn tối, quân đối phương đưa chị về giam tại Ty An ninh tỉnh Tuyên Đức. Chị bị giam giữ và tra tấn ở đây suốt 3 tháng. Cùng phòng giam với chị còn có một nữ tù tên Nguyễn Thị Dương và sinh viên Trương Đình Thành. Chúng đã tra tấn, đánh đập cả ba người hết sức tàn bạo. Chị Dương đã bị chết trong tù. Anh Thành hiện còn sống, nhưng đã trở thành người tàn phế. Riêng Ba Diệp bị quân đối phương dùng dao rạch nát kẽ tay và cắt gân chân... Một người bác sĩ tốt bụng đã bí mật báo cho “C16” biết tin. Trung tướng Trần Văn Phước đã xin “lệnh bài” của phủ Tổng thống và lấy trực thăng bay từ Sài Gòn lên Đà Lạt để cứu Ba Diệp thoát khỏi nhà tù...

Ba Diệp có mặt tại Đà Lạt từ những ngày thành phố hỗn loạn vì quân đối phương bỏ chạy khỏi cao nguyên. Chị đã tổ chức cứu chữa cho hàng trăm người bị thương, rồi sau đó, tham gia đoàn công tác của đồng chí Phạm Hùng từ Đà Lạt tiến về giải phóng Sài Gòn...

Những ngày dưỡng thương

Chiều 30-4-1975, trong lúc đang cùng đoàn cán bộ Quân quản làm việc tại Dinh Độc Lập, Ba Diệp đã ngất xỉu bởi vết thương trên đầu tái phát, do  nhiều đêm thức trắng, căng thẳng và làm việc quá sức. Đồng đội lập tức đưa chị vào bệnh viện cấp cứu. Khi tỉnh dậy, Ba Diệp thấy mình đang nằm trong Bệnh viện Nhân dân Gia Định. Chị lơ mơ nghe các bác sĩ nói mình đã được phẫu thuật cách đó hơn một tuần. Họ đã lấy được một mảnh đạn nhỏ 3 ly, nằm trong hộp sọ, sau tai trái của Ba Diệp. Vì nhóm máu O của chị quá hiếm, một bác sĩ người Mỹ tốt bụng đã tình nguyện hiến máu cho chị... Rồi chị lại ngất đi, không biết gì nữa...

Mãi 3 tháng sau, Ba Diệp mới tỉnh dậy lần thứ hai, thấy mình đang trong Bệnh viện Chợ Quán. Người bác sĩ reo lên khi biết Ba Diệp tỉnh lại. Những ngày đó, chị cứ lơ ngơ, nửa mê nửa tỉnh.

Bà Đặng Hoàng Ánh (áo trắng, giữa) là đại biểu duy nhất của tỉnh Lâm Đồng
tham dự cuộc gặp mặt tôn vinh các nhân chứng lịch sử 40 năm Tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân 1968, tại Hà Nội, tháng 2-2008.

Rồi tới một ngày, Ba Diệp nghe lỏm các bác sĩ nói với nhau: Bà này bị “nẹc-vơ” (trầm cảm) rất nặng, chuẩn bị đưa đi nhà thương điên ở Biên Hòa. Chị hoảng quá, liền tự bỏ bệnh viện ra về trong tình trạng nửa tỉnh, nửa mơ, nhiều khi không biết mình là ai, không nhớ quá khứ của mình thế nào và không một thứ giấy tờ tùy thân. Theo bản năng, chị tìm về căn nhà cũ của mình trong một con hẻm nhỏ ở gần chợ Cây Quéo - Gia Định. Ngôi nhà lâu không có người ở, hoang tàn như người chủ của nó.

Không có lương, không tiền trợ cấp, để có thể sống tồn tại được hằng ngày, Ba Diệp phải ra chợ trời buôn bán. Chị mua đồ cũ của vợ con công chức chế độ cũ, vợ sĩ quan binh lính Sài Gòn từ quần áo, đến cassette, tivi, tủ lạnh... (họ bán dần đi để lấy tiền ăn), rồi mang ra chợ hè phố Huỳnh Thúc Kháng bán. Gặp gì mua nấy, có lời là bán, miễn là kiếm được mấy đồng đủ mua gạo, mua rau sống qua ngày. Cũng vì buôn bán ở chợ trời Huỳnh Thúc Kháng - Sài Gòn mà trong một đợt bị truy quét, Ba Diệp đã bị bắt đưa đi lao động cải tạo tại trại Ba Reng, thuộc H. Mộc Hóa, tỉnh Tây Ninh, sát biên giới Campuchia. Khi quân Pôn Pốt tấn công biên giới, trại Ba Reng bị tan rã, Ba Diệp thoát được về Sài Gòn, rồi lên Đà Lạt. Chị phải thuê nhà, sống bằng nghề chữa bệnh “chui” và buôn thuốc Tây ở chợ trời. Trí nhớ khôi phục dần, Ba Diệp thường kể cho các con nghe về cuộc đời hoạt động của mình. Chị cũng hay nhắc đến “cậu Hai Phạm Hùng”, lúc đó đã là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, đài, báo thường xuyên đưa tin và nói tới. Lũ trẻ nhà chị không tin, cứ thắc mắc hoài: “Sao má quen nhiều người là lãnh đạo, lại có Cậu Hai làm lớn, mà sao cuộc sống cả nhà vẫn khổ thế?”. Ba Diệp không biết giải thích cho các con thế nào.

Nói về cuộc đời của Ba Diệp, có một số chi tiết mà trong các kỳ trước chưa đề cập đến. Sau khi sinh con gái đầu lòng Đào Kim Chi năm 1960, năm 1962, chị sinh tiếp con trai Trần Tấn Phúc. Nhưng chỉ nuôi được 1 tháng 24 ngày thì cháu bị bắt cóc tại Đà Lạt và mất tích từ đó (mãi tới năm 2006, bà Đặng Hoàng Ánh mới được tin con trai mình còn sống, hiện đã trở thành một nhà sư tu hành tại Pháp).

Năm 1973, một hôm, Trần Văn Phước - cán bộ cách mạng hoạt động bí mật, có bí danh C16- mang đến cho Ba Diệp một cậu bé chừng 3-4 tuổi, tên gọi thân mật là Jacquet, người gầy ốm, nói là ba mẹ cậu đều là cán bộ cách mạng, nhưng đã hy sinh, không còn ai thân thích. Ba Diệp đã thương yêu, coi thằng bé như con, sau đó chị nhận Jacquet làm con nuôi và đổi tên là Đặng Anh Quân.

Năm 1976, khi phát hiện mình bị bệnh ung thư gan giai đoạn cuối, Giáo sư Đào Tuấn Kiệt đã quyết định sống ly thân với vợ con. Ông về quê ở ẩn, còn bao nhiêu tiền đem tặng nhà chùa làm từ thiện, rất hiếm khi ông liên lạc với mẹ con chị. Giáo sư Đào Tuấn Kiệt mất năm 1982, trong cảnh cô đơn và nghèo túng.

Vận hạn khôn lường

Cũng năm 1982, trong chuyến công tác tại Đà Lạt, đồng chí Phạm Hùng, khi đó đang đảm nhiệm trọng trách Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ CA) đã ghé thăm nhà Ba Diệp, thấy cảnh nhà nghèo đói, ông đã cứu trợ gia đình chị 2 bao gạo.

Một buổi tối sau đó ít lâu, Ba Diệp bị 2 người đàn ông lạ mặt “bắt cóc” lên xe U-oát chở ra Bắc. Mãi sau này chị mới biết mình được bí mật đưa đi khỏi Đà Lạt là để tránh sự hiểu nhầm của một vài đồng đội và sự truy sát của kẻ xấu. Ba Diệp đã được đồng chí Phạm Hùng bố trí đưa đi Trung Quốc an dưỡng và học nghề thuốc Bắc 4 tháng. Sau đó, mang tên một người khác, chị đã có mặt trong Đoàn cán bộ của Bộ Y tế Việt Nam sang Cộng hòa Czech và ở lại Châu Âu 3 năm để “xóa đói giảm nghèo” lấy tiền về nuôi các con.

Đã từ lâu, Ba Diệp phải một mình nuôi con. Những đứa con của chị đã không được hưởng trọn vẹn tình yêu thương và chăm sóc của cha mẹ. Hồi con còn nhỏ, do yêu cầu hoạt động cách mạng, Ba Diệp phải gửi con gái cho trường tư thục của nữ tu viện dòng Thánh Phaolo ở Đà Lạt nuôi giúp. Thời gian chị bất ngờ bị bắt đi cải tạo lao động ở Ba Reng, 2 chị em Kim Chi và Jacquet (Đặng Anh Quân) bơ vơ không nơi nương tựa, đã phải bỏ nhà đi ăn xin. Hai chị em dắt díu nhau lang thang, lạc mãi xuống tỉnh Vĩnh Long, rồi tá túc trong chùa Long Thạnh, được nhà sư Trí Phước cưu mang...

Tai họa và bất hạnh liên tiếp giáng xuống gia đình bà Đặng Hoàng Ánh: năm 1985, cô con gái Đào Kim Chi của bà bất ngờ chết trong một tai nạn giao thông, để lại hai đứa cháu ngoại bé bỏng. Nỗi đau mất con gái còn chưa nguôi thì năm 1994, đến lượt người con nuôi Đặng Anh Quân lại bị TNGT vỡ hộp sọ, gãy chân trái và gãy cả hai tay. Bà Hoàng Ánh phải đưa Quân về Bệnh viện Chợ Rẫy chạy chữa. Từ một thanh niên to khỏe, Quân chỉ còn da bọc xương và nặng... 25kg. Sau gần một năm, Quân đã thoát khỏi tử thần nhưng đầu óc anh không được như người bình thường, thỉnh thoảng lại “lên cơn” không làm chủ được mình. Vì thế, vợ của anh đã một mực đòi ly dị, bỏ lại 2 đứa con nhỏ để đi tìm hạnh phúc mới.

-------------------------------------------------------------------

Cuộc đời của bà Đặng Hoàng Ánh được ghi lại trong cuốn sổ tay mà bà gọi là “hồi ký, hay là ký sự cuộc đời tôi”. Đây không phải là chuyện văn chương, mà là những trang đời đầy máu và nước mắt.

Đặng Vương Hưng

Kỳ cuối: Ký sự cuộc đời