Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII: Chất vấn toàn diện tình hình đất nước
(Cadn.com.vn) - Ngày 16-11, Quốc hội bắt đầu phiên họp giám sát, chất vấn và trả lời chất vấn, dự kiến diễn ra trong 2,5 ngày. Hoạt động chất vấn tại kỳ họp 10 khác biệt lớn so với các kỳ họp trước. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nêu rõ, nội dung chất vấn tại kỳ họp này sẽ rất tổng hợp, toàn diện tình hình của đất nước, trong đó có liên quan tới hoạt động của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên của Chính phủ, Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng Viện KSND tối cao. Đây là những nội dung mang tính tổng kết cho cả kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII.
Bộ GD&ĐT sẽ “lắng nghe” về tích hợp môn lịch sử
Tại phiên chất vấn buổi chiều, đại biểu Lê Văn Lai (Quảng Nam) chất vấn về Đề án cải cách chương trình sách giáo khoa, dư luận rất quan tâm đến môn lịch sử vì có ý kiến cho rằng không thấy tên của môn lịch sử trong chương trình giáo dục mới (Chương trình Phổ thông Trung học), Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Vũ Luận khẳng định rằng môn lịch sử không bị coi nhẹ mà được coi trọng hơn so với chương trình hiện hành. Bộ trưởng cho biết hiện tại, cấp học trung học phổ thông đang học 1,5 tiết lịch sử/tuần, trong thiết kế dự thảo đang được lấy ý kiến, đối với học sinh không học chuyên ban khoa học xã hội sẽ học bình quân 2,5 tiết lịch sử/ tuần, tăng 1 tiết. Những học sinh phân ban học khoa học xã hội học bắt buộc 4 tiết/tuần. Bộ trưởng nêu rõ nội dung và khối lượng kiến thức về lịch sử là tăng lên.
Giải thích vì sao lại đưa môn lịch sử vào môn Giáo dục công dân và Tổ quốc, Bộ trưởng Phạm Vũ Luận cho biết: Thứ nhất, việc này thực hiện theo chủ trương tích hợp; thứ 2, trong Luật giáo dục quốc phòng và an ninh mà Quốc hội mới thông qua có quy định giảng dạy về lịch sử giữ nước, lịch sử quốc phòng, chính vì vậy dự kiến đưa môn lịch sử vào môn học Giáo dục công dân và Tổ quốc để tránh trùng lắp. Bộ trưởng cho biết thêm, ngoài nội dung lịch sử được giảng dạy trong phần Giáo dục công dân và Tổ quốc, ở các môn học các Bộ dự kiến đều có giáo dục lịch sử.
“Giảng dạy về văn học sẽ gắn với lịch sử, chúng ta giảng cho các cháu về Hịch tướng sỹ, Bình ngô đại cáo, Tuyên ngôn độc lập... mà không gắn với lịch sử thì học sinh không hiểu được, không thể có rung động được. Không chỉ trong văn học, trong địa lý cũng sẽ gắn với lịch sử, tên đất, tên đảo gắn với chiến công, với quá trình xây dựng bảo vệ Tổ quốc của cha ông của vùng đất đó; giáo dục âm nhạc, mỹ thuật và nhiều môn học khác cũng vậy, sẽ gắn kết hỗ hợ cho giáo dục lịch sử” - Bộ trưởng nêu rõ. Theo Bộ trưởng Phạm Vũ Luận, vấn đề cần thảo luận làm rõ là cần phải để riêng thành một môn lịch sử hay là để lịch sử gắn bó, tích hợp với các môn học khác.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đề nghị Bộ trưởng Bộ GD&ĐT nêu quan điểm của Bộ sắp tới môn lịch sử có được là môn độc lập trong sách giáo khoa hay không, Bộ trưởng Phạm Vũ Luận cho biết: Hiện nay Ban soạn thảo và Bộ đang lắng nghe ý kiến rộng rãi của người dân, trên cơ sở đó sẽ có thảo luận, tiếp thu. Bộ dự kiến sẽ có báo cáo làm việc với Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng lý luận Trung ương, Hội đồng quốc gia giáo dục, Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội, các hiệp hội sau đó sẽ báo cáo với Thủ tướng Chính phủ. Quan điểm của Bộ trưởng là: Nếu việc tích hợp làm giảm nhẹ môn lịch sử thì không tích hợp; việc tích hợp vẫn đảm bảo, nâng cao hơn chất lượng giáo dục lịch sử thì mới tích hợp. Bộ trưởng khẳng định: Bộ sẽ cùng lắng nghe các chuyên gia giáo dục, chuyên gia lịch sử, ... để có câu trả lời cuối cùng.
Nhiều diện tích rừng ở khu vực hồ thủy điện Buôn Tua Srah (Đắc Lắc) đã bị phá tan nát. Ảnh: Cao Nguyên |
Vẫn chậm triển khai trường nghề chất lượng cao
Trả lời câu hỏi chất vấn của đại biểu Trương Văn Vở (Đồng Nai) về việc triển khai các trường nghề chất lượng cao chậm so với Quyết định 630/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển nghề, Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Phạm Thị Hải Chuyền cho biết: Tháng 4-2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển nghề giai đoạn 2012-2020, trong đó giao Bộ LĐ-TB&XH tham mưu xây dựng các trường nghề chất lượng cao.
Đến tháng 5-2014, Bộ đã trình và Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 45 trường nghề chất lượng cao. Tháng 6-2014, Bộ đã mời các bộ, ngành, trường nghề được phê duyệt đến bàn kế hoạch triển khai và xây dựng lộ trình triển khai thực hiện các trường nghề chất lượng cao đó. Trong số 45 trường nghề chất lượng cao, Bộ đã bám vào nhu cầu phát triển cũng như yêu cầu, nguồn nhân lực của từng vùng. Cụ thể: vùng đồng bằng Đông Nam Bộ có 10/45 trường nghề chất lượng cao, trong đó TPHCM 4 trường, Đồng Nai 3 trường, Bà Rịa – Vũng Tàu 2 trường, Bình Dương 1 trường.
Về lộ trình thực hiện trường chất lượng cao, Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền cho biết: Bộ đã có kế hoạch triển khai để các trường nghề chất lượng cao sớm đi vào hoạt động và có hiệu quả. Đồng thời, Bộ đã trình Chính phủ đề án đổi mới công tác dạy nghề, trong đó có đề xuất đầu tư về cơ sở vật chất, nhất là thiết bị cho các trường để đảm bảo yêu cầu chất lượng cao.
Chú trọng chính sách đối với người có công
Về chính sách đối với người có công, Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền nêu rõ: Thực hiện chính sách đối với người có công, đặc biệt giải quyết cho người bị nhiễm chất độc da cam đang là vấn đề khó về hồ sơ, nhất là việc giám định loại bệnh thế nào là ảnh hưởng do chất độc da cam gây ra. Chính vì vậy, Bộ LĐ-TB&XH đã có văn bản đề nghị Bộ Y tế chủ động, phối hợp với Hội đồng y khoa các tỉnh khám giám định, xác định mức độ bệnh tật của các đối tượng tham gia hoạt động kháng chiến bị phơi nhiễm chất độc hóa học, làm cơ sở để thực hiện chính sách.
Trả lời câu hỏi của đại biểu Vũ Xuân Trường (Nam Định) về những khó khăn cho việc xác định bị nhiễm chất độc da cam đối với người tham gia kháng chiến, trong đó có việc xác định thần kinh ngoại biên cấp tính, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến cho rằng: Vấn đề xác định người nhiễm chất hóa học rất khó khăn, đặc biệt đối với chuyên ngành y cơ sở xác định bệnh thần kinh ngoại biên cấp tính thì chưa có cơ sở khoa học. Bởi chiến tranh đã lùi xa hơn 40 năm và khi muốn xác định người đó có nhiễm chất độc dioxin, thì thực chất phải lấy máu xét nghiệm chất đó ở trong máu. Tuy nhiên, phương án đó không khả thi.
Năm 2013, thực hiện Nghị định 31 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết về Pháp lệnh đối với những người có công, liên Bộ (Y tế, LĐ-TB&XH) đã ban hành Thông tư 41 về hướng dẫn, chẩn đoán các bệnh, tật, dị tật, dị dạng đối với những người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học. Vấn đề này, Bộ Y tế đã chỉ đạo các Sở Y tế và các giám định viên y khoa phải làm việc nghiêm túc, khách quan. Theo báo cáo không đầy đủ của 35 tỉnh, năm 2013, đã có khoảng 2.480 người đã được xác minh. Thời gian tới, Bộ trưởng Bộ Y tế khẳng định tiếp tục chỉ đạo để việc xác minh hồ sơ đối với những người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc da cam được tốt hơn.
Thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ
Trả lời câu hỏi của các đại biểu về các giải pháp để thúc đẩy, hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ và xác định tiêu chí công nghiệp công nghệ cao cũng như công nhận công nghiệp công nghệ cao, Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân cho biết: Trong việc hỗ trợ cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ có từ rất sớm.
Tuy nhiên, hệ thống chính sách, luật pháp của nước ta chưa đồng bộ, vì thế, trong quá trình xây dựng chương trình đổi mới công nghệ quốc gia và Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, có những vướng mắc. Bộ trưởng cho biết, để tháo gỡ những vướng mắc đó, Bộ KH&CN đã phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng các văn bản hướng dẫn và Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia năm nay đã được bố trí kinh phí đi vào hoạt động. Hiện có hơn 200 doanh nghiệp đã có hồ sơ và Bộ đang chuẩn bị xét duyệt.
Bộ trưởng Nguyễn Quân cho biết: Hằng năm Quốc hội cho phép dành 2% để phát triển khoa học công nghệ. Tuy nhiên do điều kiện ngân sách khó khăn, do đó, Bộ chỉ bố trí được 1,3% hoặc 1,5% tổng chi phí chi ngân sách cho ngành khoa học công nghệ; trong đó hầu hết dành cho chi đầu tư và chi thường xuyên. Phần kinh phí dành cho các nhiệm vụ khoa học công nghệ (đề tài, dự án, kể cả hỗ trợ cho doanh nghiệp) chỉ chiếm 10% của 2% trong tổng số ngân sách cho nên nguồn lực hỗ trợ cho doanh nghiệp không có nhiều. Do đó, Bộ đã tận dụng tối đa năng lực của các viện, trường khi giao đề tài nghiên cứu cũng phải dành một phần năng lực của họ cho hỗ trợ doanh nghiệp. Đây là sự phối hợp hợp tác công tư trong khoa học công nghệ- Bộ trưởng nêu rõ.
Siết chặt quản lý thuốc bảo vệ thực vật
Đại biểu Nguyễn Văn Tuyết (Bà Rịa- Vũng Tàu) nêu kiến nghị của nhiều doanh nghiệp xung quanh khoản 5, Điều 5, mục B của Thông tư 21 quy định chỉ được đăng ký 1 hàm lượng hoạt chất cho mỗi dạng thành phẩm của thuốc bảo vệ thực vật. Trả lời chất vấn của đại biểu, Bộ trưởng Cao Đức Phát cho biết: Trước khi thông tư ban hành, 4.100 tên thuốc bảo vệ thực vật được lưu hành với 1.700 các hoạt chất. Số lượng này quá nhiều, gây khó khăn cho nông dân khi lựa chọn thuốc cũng như công tác quản lý.
Bộ trưởng nêu rõ: “4.100 tên thuốc có nghĩa với cùng một bệnh trên cùng một cây trồng lại có những loại thuốc rất khác nhau. Nhiều khi chỉ chênh nhau hàm lượng một chút, hoặc cho thêm thành phần nào đó, lại đặt một tên khác. Trong khi đó, tên thuốc đặt lại không phải là tiếng Việt, phần lớn tên thuốc mà ngay cán bộ chuyên ngành cũng rất khó nhớ”. Thậm chí, Bộ trưởng nêu thực trạng thuốc bảo vệ thực vật xuống cấp cũng đổi tên. Để chấn chỉnh tình hình này, Bộ trưởng Cao Đức Phát khẳng định, phải siết chặt lại, trong đó có việc quy định việc đăng ký tên thuốc. Thông tư 21 quy định mỗi tổ chức, cá nhân chỉ đăng ký một tên thuốc cho một loại hoạt chất, một loại thuốc kỹ thuật và thuốc thành phẩm. Bộ trưởng lo ngại nếu để như trước đây, sẽ gây rối và khó cho nông dân và nhà quản lý.
Tuy nhiên, trước sự viện dẫn của đại biểu Nguyễn Văn Tuyết về 40 doanh nghiệp đã ký vào biên bản, đề nghị xem xét lại quy định này, Bộ trưởng Cao Đức Phát cho biết sẽ tiếp tục lắng nghe, xem xét kỹ ý kiến của các doanh nghiệp. Một lần nữa, Bộ trưởng khẳng định: “Tinh thần là sẽ siết chặt quản lý để đảm bảo lợi ích của người dân”.
Thu Thủy – TTXVN
Kiên quyết thực hiện trồng bù rừng thay thế Trong phiên chất vấn buổi sáng, trả lời các đại biểu Tô Văn Tám (Kon Tum), Trương Văn Vở (Đồng Nai) về vấn đề trồng bù diện tích rừng thay thế cho các dự án công trình thủy điện, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng cho rằng: Trong lĩnh vực này, Chính phủ giao cho Bộ NN&PTNT chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương. Thời gian qua, hai Bộ đã phối hợp chặt chẽ. Năm 2015, các cơ quan chức năng đã làm được khá nhiều việc, trong đó có vai trò rất tích cực của các địa phương và sự cố gắng từ các chủ đầu tư dự án, công trình thủy điện. Do đó, năm 2015 khả năng sẽ hoàn thành kế hoạch trồng bù rừng thay thế của các công trình thủy điện đã được Tổng cục Lâm nghiệp – Bộ NN&PTNT đề ra. Năm 2016, đối với diện tích rừng mà các công trình thủy điện đã lấy để phát triển, sẽ hoàn thành kế hoạch trồng bù rừng thay thế.
Để hoàn thành nhiệm vụ trên, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng cho biết, Bộ Công Thương đã đề ra 3 phương án. Đối với những dự án thủy điện đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt trồng bù diện tích rừng thay thế, một mặt Bộ tiếp tục cấp giấy phép hoạt động điện lực, đồng thời đôn đốc các chủ đầu tư phải hoàn thành tiến độ trồng bù rừng thay thế theo đúng phương án mà cấp có thẩm quyền đã phê duyệt. Nếu những chủ đầu tư không hoàn thành sẽ xử lý theo quy định đối với việc trồng bù rừng thay thế. Những dự án thủy điện đang có phương án trồng bù diện tích rừng thay thế, trong khi chờ phương án phê duyệt, ngành Công Thương sẽ tạm thời cấp giấy phép hoạt động điện lực một năm. Sau một năm, phương án trồng bù rừng thay thế đã phê duyệt, nếu chủ đầu tư không thực hiện, Bộ Công Thương sẽ xử lý vi phạm theo quy định. Đối với những chủ dự án đã có phương án được phê duyệt nhưng không thực hiện, do khuyết điểm, thiếu trách nhiệm của chủ dự án, Bộ Công Thương sẽ cho thủy điện đó tạm thời dừng và rút giấy phép hoạt động điện lực của chủ đầu tư cho đến khi khắc phục được tình trạng đó. Về sự chênh lệch trong thống kê diện tích trồng bù rừng thay thế của công trình thủy điện, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng giải thích: Vấn đề này, có thể trong thời điểm thống kê giữa Bộ Công Thương và Bộ NN&PTNT có khác nhau. Mặt khác, có thể do một số công trình kết hợp giữa thủy lợi và thủy điện, nhưng thủy lợi là chính, còn thủy điện chỉ hỗ trợ. Bộ trưởng nêu ví dụ ở công trình Thủy lợi thủy điện Cửa Đạt (Thanh Hóa) và một số công trình khác. Kiểu công trình này chủ yếu là thủy lợi nên khi thống kê diện tích rừng phải trồng thay thế đã tính vào công trình thủy lợi, mà không tính hoặc tính rất ít vào công trình thủy điện. Tuy nhiên, Bộ Công Thương sẽ rút kinh nghiệm và đảm bảo thống nhất các con số trong báo cáo về diện tích trồng rừng thay thế để phù hợp, đúng với thực thế. |