“Một thời mãi nhớ” - Những hồi ức không thể nào quên của nữ điệp báo Đà thành
“Một thời mãi nhớ”, hồi ký của tác giả Nguyễn Thị Thanh, do NXB Hội Nhà Văn ấn hành tháng 9-2024 kể về hoạt động mạng lưới điệp báo xứ Quảng, giai đoạn cao điểm chiến tranh vào những năm cuối thập niên 60 đến mùa xuân 1975, trong đó, tác giả là người nữ điệp báo đã góp phần chủ động tấn công, phá hủy kế hoạch Phượng Hoàng của địch đang triển khai tại Đà Nẵng. Hồi ký gồm 5 chương, kèm theo nhiều hình ảnh tài liệu giá trị, phản ánh sống động qua các thời kỳ sống và chiến đấu của người viết.
Tác giả Nguyễn Thị Thanh sinh năm 1950, tại làng Thanh Châu, xã Xuyên Thanh (nay là Duy Châu), huyện Duy Xuyên (Quảng Nam). Hồi ở quê, chị học đến đệ Thất trường Sào Nam, Duy Xuyên thì vùng này được giải phóng. Năm 1965, chị được bố trí tham gia học khóa sư phạm để đáp ứng nhu cầu địa phương. Song không lâu sau, chị tham gia cách mạng, được đào tạo chính thức bước vào ngành điệp báo.
Đầu tiên, chị Thanh ra Đà Nẵng đóng vai học nghề thợ uốn tóc tại đường Trưng Nữ Vương (do chị Bốn Chung – người cơ sở về quê dẫn đến giới thiệu), sống trong nhà chủ, làm không lương. Nhiệm vụ chị được giao phó là tìm hiểu, xây dựng cơ sở theo dõi các đối tượng tình báo, CIA…, chuyển vũ khí vào Đà Nẵng. Trong đó, chị được nhận lệnh về Thanh Khê, xây dựng được một Khu trưởng (tương tự Chủ tịch xã bấy giờ), người này đã giúp được nhiều việc như đem tài liệu, súng đạn… vào nội thành Đà Nẵng.Kể về câu chuyện được tổ chức giao thực hiện nhiệm vụ tìm và diệt một tên tình báo nguy hiểm đang hoạt động tại Đà Nẵng, chị Thanh viết: “Đó là lần đầu tôi mang vũ khí, mặc áo rộng che K54 vào người, từ trong quê Điện Thọ, đến Thanh Quýt. Khi ngang qua doanh trại của địch, tôi nhìn thấy một xe Jeep chuẩn bị nổ máy, nhận ra là xe của Trung úy Mai và Đại úy Ngữ, tôi nở nụ cười ngỏ lời nhờ họ chở ra Đà Nẵng luôn. Trên đường đi, họ luôn chuyện trò, tán tỉnh vui vẻ. Tuy nhiên, tư thế tôi luôn sẵn sàng cảnh giác, nếu bị họ va chạm phát hiện vũ khí trong người, tôi sẽ sẵn sàng nhả đạn. Đến Đà Nẵng, họ hỏi chỗ ở của tôi, đòi vào thăm nhà, nên tôi viện mọi lý do tránh né”.
Nắm rõ quy trình đi lại của gã tình báo, theo đúng kế hoạch đã ấn định, chiều hôm ấy, có người cơ sở chở chị đến đó đợi chờ sẵn. Trong giây phút trước khi tiêu diệt tên ác ôn, chị băn khoăn, suy nghĩ về mối hệ lụy với vợ con… của hắn sẽ ra sao? Nhưng vì nhiệm vụ, vì việc lớn, bắt buộc không thể đắn đo, nổ súng. Sau đó chị bị cảnh sát vây bắt, đưa về đồn tra khảo, nhưng chị chỉ một mực nói đơn giản: “Tôi trong quê ra, chỉ nghe lệnh cấp trên báo đến, người này là ác ôn, cần phải tiêu diệt. Làm xong việc tôi về chợ Cồn ngủ, rồi về quê, chứ không biết chi thêm”.
Không lâu sau, chị Thanh (lúc này có tên là Như Huệ) bị đưa ra tòa án xử công khai, dân kéo đến coi rất đông. Luật sư biện hộ (do nhà cầm quyền cử) đề nghị tòa xem xét giảm án, vì chị còn nhỏ tuổi. Tuy nhiên, tòa vẫn tuyên án 18 năm tù. Chị kể: “Lúc đó tôi 16 tuổi, ở tù xong về tôi chỉ 34 tuổi, nên không có gì phải lo sợ, vẫn tiếp tục hoạt động cách mạng được. Nên tôi nói với họ, thôi chi bằng các ông cứ giam đủ tôi 20 năm đi, tôi không ân hận gì cả, nhưng chắc rằng tôi chỉ ở chừng vài năm, phần còn lại dành cho các ông ở”. Dân bên ngoài họ rất xôn xao, hàng trăm đôi mắt đổ dồn về chị. Vậy là chị bị kêu án 20 năm tù.
Lần lượt trải qua các nhà tù ở miền Nam, những kỷ niệm chị Thanh ghi nhớ nhiều nhất là việc gặp chị Tâm (tức là bà Trương Mỹ Hoa – nguyên Phó Chủ tịch nước). Theo chị, lúc ấy chị Tâm là một phụ nữ rất thông minh, bản lĩnh, vững vàng, nên bọn cai ngục thường phải nhượng bộ, chấp nhận đáp ứng các yêu sách. Kể về những ngày tháng ấy, chị viết: “Trong những ngày gian khổ nơi ngục tù, chúng tôi luôn nghĩ đến việc đấu tranh để đối phó với kẻ thù, nhưng vẫn thường nhớ về cha mẹ già yếu, những người thân yêu ai còn, ai mất, con đường làng, giếng nước bờ tre có còn nguyên vẹn, hay bom đạn Mỹ đã cày xới không còn như xưa; nhớ những người bạn năm xưa cùng chiến hào chia ngọt sẻ bùi bây giờ ra sao. Càng nghĩ đến những người thân yêu trong lòng cồn cào thổn thức, nhất là những ngày ở chuồng cọp Côn Đảo…”, cùng niềm tin mãnh liệt, rằng “...một ngày không xa mình sẽ được về với niềm thắng lợi hân hoan, chào đón của mọi người”.
Trong tập hồi ký, chị cũng dành nhiều trang viết về AHLLVTND Ngô Thị Huệ-người chị thân yêu và cũng là một trong những người đồng chí đầu tiên đã dìu dắt chị bước vào con đường cách mạng: “Trong chiến tranh, tôi sống gần chị khoảng ba năm (từ 1965 đến 1968), rồi do nhiệm vụ, chị em chúng tôi không gặp nhau nữa. Những ký ức chị để lại trong tôi vô cùng sâu đậm, nên về sau, khi đã trưởng thành, hiểu biết nhiều việc, mỗi khi tôi bị địch bắt, dùng nhiều thủ đoạn dụ dỗ, tra tấn thì tôi luôn nghĩ về chị Huệ như một biểu tượng đầy sự tôn kính và yêu quý. Đến mức địch hỏi tôi tên gì, tôi đã không ngần ngại khai là Nguyễn Thị Như Huệ, bởi mong muốn mình được trở thành một người phụ nữ kiên cường như con người chị Huệ”.
Đến 30-4-1975, sau ngày đất nước thống nhất, chị Thanh về lại Đà Nẵng được tiếp tục đào tạo… và bố trí làm nhiều công tác khác nhau. Chị lập gia đình cùng anh Lý Văn Công, từng là cựu tù Phú Quốc, nguyên Trưởng Ban Tổ chức Quận uỷ Hải Châu, Đà Nẵng. Vị trí cuối cùng của chị là Giám đốc Bảo hiểm xã hội quận Thanh Khê đến khi về hưu năm 2005.
Nói về sự ra đời quyển sách hồi ký “Một thời mãi nhớ”, chị Thanh bộc bạch: “Tôi chỉ là một người phụ nữ bình thường, yêu quê hương, yêu gia đình, ham sống, ham học hỏi, ham làm việc và luôn mang khát vọng cống hiến nhiều nhất cho xã hội đến khi mình còn có thể. Nay thời gian thấm thoát trôi qua… Nhìn lại, tuổi thanh xuân rồi cũng qua. Cuộc đời rồi cũng qua. Nhưng nếu được sống thêm một lần nữa, thì tôi vẫn sẽ sống như đã từng sống, từng chiến đấu…Tập sách này là những ghi chép trung thực về những ký ức nói trên”.
Trần Trung Sáng