Thăm thẳm xứ dừa

Thứ hai, 02/03/2009 00:00

Trên chuyến phà cuối cùng

(Cadn.com.vn) - Nhà thơ Võ Quê báo tin, cầu Rạch Miễu sắp hợp long, nên có thể đây là lần cuối chúng ta qua phà Rạch Miễu. Nếu ai có dịp trở lại Bến Tre chuyến sau sẽ không còn phà nữa đâu. Vì đã đọc thơ Lê Anh Xuân, rồi nghe hát hoài  câu “Dừa ơi ta nhớ lắm nghe..” mà tôi chưa một lần  đến xứ dừa. Thế nên đêm tối mấy cũng đi. Háo hức và hồi hộp.

Đêm qua phà Rạch Miễu tôi nghe chênh chao từng hơi thở sông Tiền. Những cụm lục bình nhấp nhô trong ánh sáng đèn phà gợi nhớ những ngày đánh giặc. Tôi đã không ít lần mặc quần đùi, nấp trong đám lục bình ấy để bơi qua sông Sài Gòn về Đồng Xoài, Phước Vĩnh.  Miên man gió. Gió mặn phả vào mặt, vào tóc như những ngón tay ve vuốt. Tôi có 4 năm là lính giải phóng ở Miền Đông Nam Bộ, nhưng chỉ một lần duy nhất về Miền Tây. Đó là ngày 1-5-1975, tôi về Bến Lức, Long An để viếng đứa em kết nghĩa Nguyễn Nam Trung, người Vĩnh Linh, Quảng Trị, lính của Trung đoàn độc lập 205 hy sinh trong lúc cùng cánh quân đánh vào Sài Gòn. Mấy năm trước, trong chuyến cùng đoàn nhà văn Việt Nam đi thăm Trung Quốc, nhà thơ Kim Ba ở Hội Văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu rủ tôi:  "Anh phải về Bến Tre một chuyến. Chơi cả tháng cũng được. Bến Tre ngon lành lắm, vui lắm anh...". Và tôi đã hẹn với Kim Ba. Thế mà lần lữa mãi 3 năm sau tôi mới có dịp về Bến Tre... Và đúng như Kim Ba nói, chỉ một đêm và quá nửa ngày thôi, tôi đã bị đất và người Bến Tre ám ảnh...

Về Bến Tre, chỉ “cưỡi ngựa xem hoa” thôi, tôi cũng nhận ra mảnh đất này nhiều điều lạ lùng lắm, thăm thẳm lắm. Như là hồn người ở chốn suy tư. Như nằm cho sông chảy qua hồn. Muốn về Bến Tre bất cứ ở hướng nào nhất định phải qua một con phà: phà Rạch Miễu, phà Cổ Chiên, phà Đình Khảo, phà Tân Phú. Kim Ba bảo: “Bến Tre là một hòn đảo tách biệt với các tỉnh”. Bây giờ tôi mới nghiệm ra. Ba cù lao: cù lao An Hóa, cù lao Bão và cù lao Minh do phù sa của 4 nhánh sông Cổ Chiên, sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông bồi đắp tạo nên địa hình Bến Tre như một rẽ quạt trước biển Đông cuộn sóng. Nhìn trên bản đồ, tôi lại thấy Bến Tre như một bông hoa loa kèn hướng biển. Ấy là tôi nghe nhà văn bản xứ Nguyễn Nhật Nam mô tả khi anh dẫn chúng tôi đi thăm Giồng Trôm, Ba Tri. Về Bến Tre nhưng chẳng thấy nhiều tre hơn nơi khác, chỉ thấy dừa, dừa bạt ngàn. Tôi lớn lên đã thấy dừa trước ngõ/ Dừa ru tôi giấc ngủ tuổi thơ... Nghe nói người bến Tre gốc gác xưa là dân Ngũ Quảng, Thuận Hóa, Nghệ Tĩnh ở miền Trung di cư bằng đường biển vào từ thời chúa Nguyễn. Họ gặp bến thuyền bán tre phía sông Tiền gần biển chỗ mình định cư, thế là thành tên đất (?).

Vườn dừa Bến Tre. Ảnh: T.T 

Khí chất “ông già ba tri”

Ở trung tâm TX Bến Tre, Tượng đài Đồng Khởi, biểu tượng của Bến Tre vút lên trời cao, được thắp sáng thâu đêm. Bến Tre là quê hương Đồng Khởi. Bến Tre là hòn đảo giữa bốn bề mênh mông sông nước, đó là điều kiện lý tưởng để cách mạng khai thác, tổ chức lực lượng chống giặc một cách bất ngờ và hiệu quả. Người Bến Tre tính khí mạnh mẽ. Tính khí đó đã sinh ra học sinh Trần Văn Ơn xông lên trước mũi súng trong cuộc biểu tình phản đối bọn Pháp đàn áp học sinh sinh viên Sài Gòn. Tính khí đó đã sinh ra kỹ sư tài năng Nguyễn Ngọc Nhựt, theo lời kêu gọi của Bác Hồ khi Bác sang Pháp năm 1946, tự nguyện xin về nước phục vụ cách mạng, bị Pháp bắt, chúng dụ dỗ, mua chuộc vẫn không lay chuyển tinh thần... Ấy là tính khí của cụ Đồ Chiểu: Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà…; Thà đui mà giữ đạo nhà/ Còn hơn có mắt ông cha không thờ… Tính khí đó sinh ra nhà thơ Lê Anh Xuân, tốt nghiệp đại học ở Hà Nội, một mực xin vào quê hương đánh giặc và đã anh dũng hy sinh ở chiến trường, để lại một “Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ”... Chỉ riêng tướng lĩnh cách mạng trong 2 cuộc kháng chiến đánh Pháp và đánh Mỹ, Bến Tre đã có tới 18 vị.

Muốn sống ở Bến Tre, từ xa xưa con người đã phải gồng mình lên hơn ở nơi khác. Nước ngập, con người phải đắp vồng (giồng) đất lên cao để ở. Cái chữ giồng gắn trước các địa danh ở Bến Tre (như Giồng Trôm) sinh ra từ đó. Xưa dân rất ít, ở tách biệt từng xóm nhỏ. Bốn bên rừng rậm. Cọp và người tranh chấp nhau nơi ở. Vậy nên con người phải khôn ngoan, mạnh mẽ. Chuyện “ông già Ba Tri” Trùm cả Kiểm cơm đùm gạo bới từ Ba Tri, không chờ mùa ghe bầu ra xứ Quảng, mà đi bộ hơn ngàn cây số  ra Huế để kiện lên vua Minh Mạng việc cả Hạc đắp đập ngăn không cho  ghe từ sông Hàm Luông vào chợ Ba Tri, làm cho bà con không buôn bán được. Thế mà phủ, huyện xử cho cả Hạc được. Vua Minh Mạng lắng nghe rồi phán chỉ: ”Dù làng riêng nhưng rạch chung, phủ, huyện phải coi phá đập”.

Thế là Trùm cả Kiểm thắng kiện. Từ đó sinh ra hình tượng “Ông già Ba Tri” để chỉ những người có ý chí lớn, làm chuyện khác người. Chuyện từ đầu năm 1946, từ cửa sông Hàm Luông, một chiếc thuyền buồm nhỏ đã nhổ neo vượt biển ra miền Bắc xin vũ khí cho miền Nam đánh Pháp. Trong thuyền đó hai người Bến Tre là bà Nguyễn Thị Định và Giáo sư Ca Văn Thỉnh. Có thể nói đó là chuyến vượt biển đầu tiên khai thông con đường Hồ Chí Minh trên biển sau này. Bà Nguyễn Thị Định, Giáo sư Ca Văn Thỉnh cũng là những “ông già Ba Tri” của Bến Tre. Chuyện từ năm 1948, ở căn cứ Giồng Luông, huyện Thạnh Phú, Bến Tre đã sinh ra Tiểu đoàn 307 lừng danh miền Tây Nam Bộ. Cái chất “ông già Ba Tri” của người Bến Tre thể hiện mạnh mẽ nhất là cuộc Đồng Khởi tháng 1-1960 đánh thẳng vào bộ máy quân sự Mỹ- Sài Gòn thu thắng lợi to lớn, giải phóng nhiều ấp, nhiều xã. Nổi bật nhất trong đội quân Đồng Khởi đó là “Đội quân tóc dài” dưới sự lãnh đạo của nữ tướng tài ba Nguyễn Thị Định đã làm cho bọn giặc bao phen khiếp sợ.

Ngô Minh

(còn nữa)