Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 6, sáng 24-10, Quốc hội làm việc ở hội trường, nghe Tờ trình về dự án Luật Kiến trúc. Tờ trình của Chính phủ do Bộ trưởng Bộ Xây dựng Phạm Hồng Hà trình bày nêu rõ: Việc ban hành Luật Kiến trúc là rất cần thiết, nhằm khắc phục các hạn chế, tồn tại, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, góp phần xây dựng, phát triển đội ngũ kiến trúc sư có đức, có tài; xây dựng nền kiến trúc Việt Nam hiện đại, giàu bản sắc dân tộc, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh và hội nhập quốc tế. Dự thảo Luật Kiến trúc gồm 4 chương, 37 điều quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, giải thích từ ngữ, nguyên tắc hoạt động kiến trúc, những hành vi bị cấm đồng thời quy định 2 chính sách chính là Quản lý kiến trúc và Hành nghề kiến trúc.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng cho biết, Ủy ban tán thành về sự cần thiết ban hành Luật Kiến trúc như trong Tờ trình của Chính phủ. Bên cạnh đó, đa số ý kiến thẩm tra thống nhất với phạm vi điều chỉnh và tên gọi của Luật như trong dự thảo vì cơ bản đã phản ánh được các chính sách về kiến trúc, đáp ứng mục tiêu quản lý, phát triển, hành nghề kiến trúc. Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật về việc gìn giữ bản sắc kiến trúc Việt Nam; bảo tồn, phát huy kiến trúc các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật nên chỉ tập trung vào nội dung hành nghề kiến trúc và theo đó tên gọi của Luật là Luật Kiến trúc sư.
Về yêu cầu quản lý kiến trúc, đa số ý kiến nhất trí với các quy định yêu cầu chung quản lý kiến trúc và yêu cầu kiến trúc đối với đô thị, nông thôn, khu phố cổ.
Có ý kiến đề nghị, nếu phân loại theo đặc điểm kinh tế - văn hóa - xã hội thì ngoài các đối tượng là đô thị và nông thôn thì trên thực tế còn có các đối tượng khác cũng cần được rà soát, quản lý kiến trúc (khu chức năng; khu vực giáp ranh; công trình có kiến trúc cần được bảo tồn nhưng chưa được công nhận di sản văn hóa; nông thôn trong đô thị; kiến trúc công trình tôn giáo, tín ngưỡng; kiến trúc quân - dân sự; hải đảo...). Nếu phân loại theo đặc điểm chuyên môn quản lý, các đối tượng có thể bao gồm: Kiến trúc công trình (nhà ở, công trình công cộng, công trình công nghiệp, kỹ thuật, nghệ thuật, quảng cáo...); Kiến trúc cảnh quan (không gian trước các tổ hợp kiến trúc, công viên, cây xanh, vườn hoa, mặt nước...); Kiến trúc không gian (không gian tổng thể).
Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, giải trình, tiếp thu các ý kiến trên, làm rõ các đối tượng quản lý kiến trúc theo hướng vừa mang tính đại diện nhưng vừa đồng bộ, thống nhất, khả thi trong quản lý và đáp ứng sự phát triển. Trên cơ sở phân loại, làm rõ đối tượng quản lý kiến trúc để xây dựng các yêu cầu và quy chế quản lý cho phù hợp, tránh chồng chéo, bỏ sót đối với từng đối tượng: đô thị, nông thôn, khu phố cổ...
Về Hội đồng Kiến trúc Quốc gia (Điều 13), đa số ý kiến đồng ý với sự cần thiết ban hành quy định này vì cho rằng đây là một trong những công cụ cần thiết cho quản lý, phát triển kiến trúc nhằm phát huy khả năng chuyên môn của các chuyên gia đối với hoạt động có tính đặc thù cao và tác động xã hội lớn; đồng thời còn đóng vai trò phản biện về chuyên môn đối với các ý kiến của cơ quan quản lý hoặc chủ đầu tư. Thực tế ở nhiều địa phương hiện nay, Hội đồng Quy hoạch - Kiến trúc vẫn đang hoạt động hiệu quả. Vì thế, Ban soạn thảo cần nghiên cứu, quy định cụ thể hơn trách nhiệm của Hội đồng; quy định linh hoạt hơn về thành viên và mở rộng hơn nhiệm vụ của Hội đồng.
PHAN PHƯƠNG